Thứ Năm, 16 tháng 5, 2013

So sánh Tri thức luận của Descartes và david Hume.




Giống nhau:
Cả hai muốn tìm nền tảng tri thức và đặt nền tảng tri thức trên những gì mà con người đã biết qua kinh nghiệm. Như vậy đồng nghĩa với việc họ loại bỏ sự hiện diện của thần thánh trong việc con người tìm kiếm tri thức và sự khôn ngoan hiểu biết.
Khác nhau
Thuyết tri thức của Descartes  đặt nền tảng trên lý trí và cho rằng lý trí có một khả năng siêu việt. Ông đi từ trực giác rồi đến phương pháp diễn dịch để khẳng định tính chắc chắn tuyệt đối trong các kết luận lý trí đưa ra. Từ đó ông đề ra các nguyên tắc cho lý trí là không thể chấp nhận bất cứ điều gì là đúng trước khi nó được phơi bày các lý lẽ và sau khi vượt qua tất cả những hoài nghi.
Điều chắc chắn nhất đó chính là sự suy tư. Vì theo ông, con người suy tư thì tồn tại “Cogito ego sum”.
Descartes nghi ngờ sự chắc chắn của kinh nghiệm. Bởi vì ông chỉ chấp nhận điều gì là đúng chỉ khi nào có thể kiểm chứng bằng khả năng lý trí của chính ông. Kể cả một ý tưởng nào đó mà chính truyền thống đã thừa nhận bấy lâu cũng không phải là một bảo đảm cho tính xác thực của ý tưởng ấy. Ông đoạn tuyệt với quá khứ và đi tìm nền tảng của sự chắc chắn thuộc lý trí theo lý lẽ ông. Ông cho rằng lý trí có thể dễ dàng đi từ một nguyên đúng này đến một nguyên lý đúng khác nhờ phương pháp diễn dịch. Tất cả những suy luận cần thiết, rút ra được từ những sự kiện đã được chúng ta biết một cách chắc chắn. Nền tảng chính của nguyên tắc này chính là phương pháp tam đoạn luận đã có trong truyền thống, ông áp dụng nó cho lối suy diễn này.
Chứng minh có Thiên Chúa hiện hữu và Ngài chính là hữu thể tuyệt đối. Descarte quan niệm đó là một bản thể vô cùng, vĩnh cửu, bất biến, độc lập và toàn tri. Bởi vì Ngài là chủ thể hoàn hảo và là tác giả của ý niệm hoàn hảo. Theo ông nguyên nhân bao giờ cũng phải hơn hậu quả, mà ý tưởng về Thiên Chúa hiện hữu trong ông, mà ý tưởng đó lại là vô cùng cao siêu, còn ông lại là cái hữu hạn, vì thế ý tưởng đó không thể do chính bản thân ông mà có nhưng là nó có là vì nó đến từ Thiên Chúa.
Descartes đưa ra nhận định: Trí khôn chính là khả năng liên kết các ý niệm đơn sơ để tạo nên ý niệm phức tạp.
Theo Descartes thì phải tự mình đạt tới sự vững bền, chắc chắn, đạt tới những nguyên lý làm nền tảng cho tri thức, không lệ thuộc vào những yếu tố khả giác, bất tất. Muốn vậy phải gạt bỏ tất cả những gì là không chắc chắn, chỉ giữ lại những gì mà mình hoàn toàn chắc chắn, không còn có thể hoài nghi được điều gì nữa.
Nhận xét: Descartes cũng như các triết gia thời cận đại đã không đặt vào đối tượng suy tư, mà chính là chủ thể suy tư “cogito”. Không tìm kiếm những đặc tính thường hằng, vững bền của hữu thể mà là sự vững chắc thường hằng của chính hoạt động suy tư.
David Hume
David Hum cho rằng tư tưởng con người là dường như vô hạn. Qua việc tưởng tượng có thể nhìn về quá khứ hay hướng ra tương lai, đi vòng quanh thế giới và tận cùng vũ trụ từ vĩ mô đến vi mô. Tuy nhiên, đứng trước viễn cánh bao la ấy, lý trí con người rất hạn hẹp, như bị đóng khung, giam hãm trong sự tri giác, lý trí nhận được qua kinh nghiệm giác quan mà thôi. Ông Giải thích thực tại của thế giới qua kinh nghiệm với hai gia đoạn là từ ấn tượng đến ý niệm.
Đi từ ấn tượng đến ý niệm: ấn tượng bao gồm tất cả những tri giác sống động khi ta nghe, thấy, yêu thương, giận ghét hay mong ước. Còn ý niệm tư tưởng thì ít sống động hơn, vì ý niệm chỉ là bản sao của ấn tượng khi ta gợi nhớ lại những ấn tượng ban đầu.
Ý niệm là bản sao vì thế không thể có ý niệm trước đó nếu không có ấn tượng, tuy nhiên không phải bất cứ ý niệm nào cũng trực tiếp liên quan với một ấn tượng riêng biệt. Có thể việc kết hợp, chuyển dịch hay giảm thiểu các ấn tượng hay tri giác kinh nghiệm cung cấp, ta có thể có được những ý niệm tổng hợp. Đi từ ý niệm đơn giản đến các ý niệm phức tạp, ý niệm phức tạp hình thành bằng việc kết nối những ý niệm phát xuất từ ấn tượng.
Đối với David Hume thì ông không quan trọng cái gì chắc chắn nhất, nhưng chỉ cần giải thích được nó bằng kinh nghiệm là được. Lý thuyết của ông về tri thức là một hình thức của chủ nghĩa duy nghiệm, vì toàn bộ tri thức phát xuất từ kinh nghiệm[1].
Hạn chế của David Hum là: Nếu chỉ dựa vào kinh nghiệm thôi thì sẽ không biết được bao nhiêu kinh nghiệm là đủ cho một ý niệm đúng, lý lẽ đúng hay chân lý đúng. Vì thế tri thức từ kinh nghiệm cũng không phải là tri thức đầy đủ và mang tính tổng hợp cao.


 joseph_huong


[1] Xem, Triết nhập môn, sđd, trang 59

1 nhận xét: