Giống: Cả Anxelm và Toma đều muốn
chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa bằng lý trí, sự khôn ngoan hiểu biết của
mình mà không cần đến chân lý mạc khải cũng như huấn giáo của Giáo Hội.
Mục đích chung không phải cả hai
Thánh dùng nó để chứng minh cho những người ngoại giáo mà hơn bao giờ hết, các
ngài dùng nó để giúp người tín hữu cũng cố niềm tin và xác tín rằng: Niềm tin họ
đặt để vào một Thiên Chúa quyền năng, toàn thiện và toàn mỹ là không hề đi ngược
với khoa học.
Cách chứng minh Thiên Chúa hiện hữu
cả hai Thánh đều có thể dùng trong việc đối thoại với người ngoại giáo hay các
tôn giáo khác khi cần thiết.
Như vậy các Ngài đều là người tín
hữu đặt vấn đề về sự hiện hữu của Chúa và suy tư rồi tìm cách chứng minh.
Sự khác nhau
Anselm chứng minh sự hiện diện của
Thiên Chúa theo bản Thể Luận, Ngài là một khái niệm phổ quát (ý niệm phổ quát).
Tức là đi từ bản thể đến sự hiện hữu của Thiên Chúa. Anxelm căn cứ trên bản
thân định nghĩa về “Chúa”, khi nói: “nếu bạn hiểu Chúa là gì, bạn cũng hiểu rằng
Chúa cần phải tồn tại”. Luận cứ đưa ra trong tác phẩm “Bổ sung cho sự suy luận”,
chính Ngài không hề hoài nghi sự hiện hữu của Thiên Chúa.
Quan điểm của Anxelm về Chúa đó
là: Chúa là Đấng Vĩ đại nhất trên tất cả mọi thứ vĩ đại khác mà ta có thể tưởng
tượng ra được. Có thể hiểu được đó là Cái mà ta không thể tư duy về một cái gì
lớn hơn thế. Nói như thế thì ta hiểu Chúa là một khách thể thật sự lớn hơn, vượt
trên tất cả những thứ còn lại, và có thể hiểu Chúa là “Độc nhất vô nhị” (có một
không hai). Sự lớn lao của Chúa là một cái tuyệt đối hoàn hảo về một sự vật thực
tại nhất “cái mà không thể tư duy về một cái nào lớn hơn thế được”.
Như vậy, Chúa là cái gì mà người
ta không thể tư duy về một cái gì lớn hơn thế nghĩa là không thể tưởng tượng được
hơn thế nữa.
Cách chứng minh của Anxelm là đi
từ khái niệm phổ quát đến sự hiện hữu. Nếu Chúa tồn tại không thể ngẫu nhiên
thì nó hoặc có hoặc không tồn tại. Như vậy, ngay bản thân khái niệm “Cái vĩ đại
mà không thể hình dung hay tưởng tượng ra một cái gì hơn thế” là một khái niệm
tất yếu tồn tại. Cái đó luôn tồn tại cho dù ý thức con người có ý thức về nó,
tư duy về nó hay không thì nó vẫn tồn tại cách hiển nhiên. Tuy nhiên, Chúa
không tồn tại theo nghĩa mà các vật thể ngẫu nhiên tồn tại. Cho dù Chúa là gì
đi chăng nữa thì Ngài vẫn không phải là một bộ phận của thế giới theo nghĩa đó.
Khi
nghe về “ cái gì đó lớn lao mà không thể tư duy được về cái gì đó lớn lao hơn
thế” thì người nghe thấu hiểu tất cả những gì nghe thấy. Và cái mà nghe thấu và
hiểu được về nó thì chính cái đó hiện diện trong tư duy của nó, thậm chí cả khi
nó không nhận thấy rằng cái ấy đang tồn tại.
Vì nếu khi nói bất cứ thứ gì đó
vĩ đại mà ta không thể tư duy đều tồn tại là không thể được, vì khi nói như vậy
thì đã đưa nó về khái niệm vật chất thông thường.
Như vậy Anselm là nhà Triết học thuộc phái duy thực.
Khác với Anselm, Thánh Toma
khi chứng minh sự hiện hữu của Chúa bằng hai cách thức khác nhau, đó là phương
pháp vũ trụ luận và phương pháp về mục đích luận. Ngài là người thuộc trường
phái duy thực ôn hòa.
Đấng sáng tạo tồn tại phát xuất từ
sự hiện hữu của thế giới. Bởi vì theo Ngài bất cự sự tồn tại nào cũng đều có
nguyên nhân của nó. Qua hai phương pháp Vũ tru luận và mục đích luận mà Thánh
Toma đã đưa ra 5 cách chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa.
1 – Luận cứ phát
xuất từ động cơ bất động
2 – Luận cứ phát
xuất từ nguyên nhân không có nguyên nhân
3 – Luận cứ phát
xuất từ khả năng và tất yếu
4
– Luận cứ các cấp độ của đặc tính (mức độ hoàn thiện)
5 – Luận cứ xuất
phát từ cấp độ chủ ý
Bây giờ chúng
ta lần lượt đi từ những luận cứ cụ thể để thấy rõ vấn đề hơn.
Lý chứng thứ nhất nhận biết sự hiện hữu
của Thiên Chúa đó là sự chuyển động, vì vũ trụ luôn có sự chuyển động. Tất cả mọi
vật thể chuyển động đều có nguyên nhân bên ngoài của nó. Chính nó phải có một
nguyên nhân khác tác động lên nó, ta không thể cứ đi ngược mãi đến vô cùng,
không bao giờ dừng lại, vì nếu cứ như thế thì chuyển động theo vòng và không thể
giải thích được chuyển động hiện có, mà phải có một nguyên nhân đầu tiên là bất
động hay đúng hơn là không thay đổi làm nguyên nhân cho toàn bộ chuyển động
trong vũ trụ: Người ta hiểu nguyên nhân đó là Chúa.[1]
Tuy nhiên khái niệm chuyển động phải hiểu theo nghĩa rộng, tức là đi từ tiềm thể
đến hiện thể.
Thắc mắc: Có những chuyển động tự phát thì sao?ví dụ
như con mèo nhảy lên cao vồ mồi?
Chắc chắn phải có một Đệ Nhất động
cơ, một hiện thể mà không vướng bởi một tiềm thể nào. Nó vô chất thể và không
thay đổi theo thời gian và tác động của nó luôn cần thiết để giải thích mọi
chuyển động trong vũ trụ.
Chứng cớ thứ hai, dựa trên nguyên nhân tác thành: Chứng cớ này giải
thích rằng trong vũ trụ phải có một nguyên nhân tác thành. Nó dựa vào nguyên
nhân tác thành tối cao cho mọi chuyển động. Các nguyên nhân tác thành cứ phụ
thuộc lẫn nhau, nguyên nhân thứ nhất rồi đến các nguyên nhân trung gian và đến
nguyên nhân cuối cùng. Nguyên nhân đệ nhất đầu tiên đó người ta hiểu là Thiên
Chúa. Bởi vì không có vật gì là nguyên nhân của chính mình. Nguyên nhân Đệ Nhất
là nguyên nhân không phụ thuộc vào một nguyên nhân nào khác, nó chính là hữu thể
tự tại. Hoạt động của nguyên nhân này không cạnh tranh với hoạt động tự nhiên,
vì nó không thuộc bình diện khả giác. Nguyên nhân Đệ nhất phải tồn tại nếu
không thfi toàn bộ chuổi những nguyên nhân và hậu quả sẽ sụp đổ và hiện tại sẽ
không có gì hết.
Chứng cớ thứ ba tính bất tất của hữu thể dẫn đến sự hữu thể tất yếu.
Trong thế giới này có những vật bất tất, vật đó có thể hiện hữu và cũng có thể
không hiện hữu. Vật bất tất thì một lúc nào đó nó hiện hữu và một lúc nào đó nó
chẳng hiện hữu nữa. Có bất tất thì cũng phải có tất yếu, nếu không nó sẽ không
có gì hết. Như thế, cái gì đó không hiện hữu thì chỉ bắt đầu hiện hữu phải nhờ
đến một cái gì đã hiện hữu trước nó là cho nó hiện hữu. Như thế kết luận là
trong thế giới này không thể chỉ có cái bất tất tồn tại nhưng còn có cả cái tất
yếu nữa. Cái tất yếu đó là một khía cạnh của thực tại chứ không phải tất cả thực
tại. Và suy như thế thì phải có một hữu thể tất yếu mà tự mình nó là tất yếu và
vật thể tất yếu đó là tuyệt đối. Bởi nó phải hiện hữu trong bất cứ điều kiện
nào, nghĩa là sự hiện hữu của nó là vô hạn. Ta hiểu được đó chính là Chúa.
Thắc mắc: Thế
thì nguyên nhân của hiện hữu vô hạn này là do đâu?
Chứng cớ thứ tư về mức độ hoàn thiện
Một số vật có mức độ hoàn thiện lớn hơn những vật khác, tức
là trong sự vật có mức độ hoàn hảo mang tính tương đối. Chứng cớ này được
Plato trình bày trong cuốn La Banquet: “ở tận cùng bên kia thế giới khả niệm có
ý niệm sự thiện tự thân” (Republique VII, III, 517 bc). Thánh Toma giải thích sự
hoàn hỏa được thể hiện theo những mức độ khác nhau nơi nhiều sự vật, không một
sự vật nào có thể tự bản chất giải thích được sự hiện hữu của nó. Như thế phải
có một nguyên nhân hoàn hảo mà tự tại, nghĩa là không còn lệ thuộc một nguyên
nhân nào khác nó và chính nó phải là cái tất yếu. Ngài cho sự vật hoàn hảo tự tại
đó chính là Chúa. Nhưng sự vật hoàn hảo này mang tính đơn thuần, không giới hạn
không như sự hoàn hảo hỗn hợp. Trong trường hợp này cũng áp dụng theo thuyết
nhân quả (sự hoàn hảo được thể hiện theo một mức độ nào đó không tự mình nhưng
cũng bất tất, nó phải do một nguyên nhân khác tạo thành và nguyên nhân tạo
thành là sự hoàn hảo mang tính toàn vẹn, tuyệt đối và tất yếu tự mình hiện hữu.
Chứng cứ thứ năm từ sự thống trị thế giới
tức là hiểu theo nghĩa trật tự vũ hoàn và yếu tố cánh chung. Theo Toma thì các
vật thể tự nhiên không thể tự mình có trí khôn thông minh. Vì thế những hoạt động
tìm kiếm mục đích của bản thân nó phải lệ thuộc vào sự thống trị thông minh hơn
nó, vượt trên nó. Mọi hoạt động tự nhiên được hiện hữu như là các sản phẩm có sự
thiết kế để đạt tới một mục đích nhất định. Như vậy hoạt động của sự vật không
do ngẫu nhiên mà do một chủ ý rõ ràng. Như thuyết nhân quả, mọi sự vật không hiện
hữu tự mình, mà các sự vật được điều khiển theo mục đích của người có trí khôn,
vậy thì chắc chắn cũng có một trí khôn siêu việt là Chúa để điều khiển tất cả
vũ trụ và các sự vậy về cùng đích của chúng. Như vậy mọi tác nhân đều hướng về
một hậu quả nhất định nào đó mà người ta gọi là mục đích của nó.
Thắc mắc: Nhưng
ta lại thấy, mọi sự vật không phải bao giờ nó cũng nằm trong trật tự, ví dụ như
khí hậu thay đổi thất thường, những dư chấn địa cầu, những quái thai…Tuy nhiên
những trật tự đó chỉ mang tính tương đối, vậy phải có một trật tự bao quát hơn.
Nếu không có tính trật tự này thì không thể nói tới cái vô trật tự được. Và vũ
trụ này là một thể thống nhất, vì thế phải do một trí khôn tối cao vượt trên tất
cả là tác giả và là Đấng điều khiển nó.
Tất cả năm luận
chứng đều sử dụng đến nguyên lý của nguyên nhân tức lý do tồn tại và áp dụng
theo những kinh nghiệm khác nhau, và dù thế nào thì thế giới vẫn không bao giờ
có lý do là tự hiện hữu, nhưng là do Thiên Chúa mà nó có.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét