Thế giới mà chúng ta đang sống sẽ
không để chúng ta nghỉ ngơi. Nó luôn thúc dục, thách thức chúng ta bằng những vấn
đề cần được giải quyết, đòi hỏi chúng ta phải hoạt động một cách khôn ngoan để
tồn tại hoặc bị triệt tiêu bởi sức mạnh tiềm tàng trong chúng. Từ đó, nãy sinh
những cảm nhận suy tư về đau khổ, bực tức hay hài lòng, hạnh phúc hay bất an,
thoải mái hay bó buộc và hàng loạt những cảm giác khác…
Con người đưa ra những triết lý,
lý lẽ cho cuộc sống để tồn tại nhờ chính kinh nghiệm từ thực tại. Từ đó rút ra
những triết lý sống đúng đắn nhất, phù hợp nhất và sắp xếp tổng hợp chúng thành
nguyên tắc chung có phương pháp và logic để sống và lưu truyền hậu thế như là
khuôn mẫu cho nền tảng của triết học. Trong chuổi dài triết lý đó luôn có những
vấn đề chung nhất, chủ chốt nhất tạo thách thức cho mọi thời đại, đòi buộc con
người phải lý giải nó. Đó là những vấn đề lớn của triết học như: bản chất vũ trụ
là gì? Con người là gì? Định mệnh con người ra sao? Vị trí con người trong vũ
trụ là gì? Bản chất Chúa là gì? Linh hồn là gì? Cái thiện, cái ác và sự đau khổ
là gì?…
Triết học thời kỳ đầu(Cổ Đại) đặt
nền tảng thực tại trên những “Huyền thoại” (Mythos). Huyền thoại chính là truyền
thống triết học tiền Socarte và các lý thuyết chủ yếu để suy tư triết học bấy
giờ là “vũ trụ luận”. Bất cứ sức mạnh nào vượt ra ngoài sự hiểu biết con người
thì đều do bởi thần minh mà có. Vì thế hàng loạt những câu chuyện thần thoại ra
đời để giúp con người giải thích và an tâm chấp nhận sự an bài của nó: thần
sông, thần nước, thần đất, thần mặt trời…
Đến thời của Socrate thì lối suy tư triết học bắt đầu
chuyển mình. Phương pháp luận bắt đầu ra đời để giải thích các hiện tượng, sự vật
theo suy tư của con người. Con người quay về với chính mình để nhận biết: “Hãy
tự biết mình”(Heracriter). Triết học
chuyển từ vũ trụ luận sang tri thức luận. Con người được đặt làm trung tâm cho
việc suy tư triết học, tức là đi tìm sự khôn ngoan nhờ việc yêu mến sự hiểu biết.
Đây là điểm khác biệt giữa con người với bất cứ thụ tạo khác. Khi suy tư, tâm
trí con người được khai mở. Từ đó, Socrate nhận định: “đối với con người, cuộc
sống mà chưa được thẩm tra thì chưa đáng sống”[1].
Socrate đã sử dụng phương pháp biện chứng để khảo nghiệm, giúp suy tư cách sâu
xa và có hệ thống về bất cứ vấn đề quan trọng nào. Ta sẽ hiểu cách thức mà
Socrate tách biệt “Logos” ra khỏi “Mythos” (tức là những thực tại của tri thức
và những thực tại của huyền thoại) như thế nào trong “biện chứng pháp” của ông
qua nổ lực tìm hiểu khái niệm đạo đức học.
Như đã nói trên, trong thời
Socrate thì huyền thoại luôn đóng vai trò chủ chốt trong việc đưa ra lời giải
đáp cho mọi vấn nạn của cuộc sống. Huyền thoại chính là những câu chuyện được
lưu truyền từ đời nọ qua đời kia, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng, tình bằng hữu, thần
thánh hay cứu cánh cuộc đời …mà được chấp nhận như sự thật, mặc dù không ai chứng
kiến những biến cố được mô tả trong cốt truyện ấy và cho dù những bài học rút
ra từ những huyền thoại kia không phải luôn luôn đồng nhất. Thế mà người ta vẫn
chấp nhận theo một truyền thống lâu đời và đáng kính[2].
Huyền thoại chỉ là cách thức lý giải và đặt vấn đề suy tư dựa trên ý niệm hay mệnh
đề nào đó mà không thể chứng minh cách rõ ràng trên một cơ sở hay nền tảng chắc
chắn, nghĩa là thiếu cơ sở và dẫn chứng cụ thể.
Socrate đã chủ trương đấu tranh
cho sự thiện hảo của con người, ông cho rằng công đoạn quan trọng đó là tra vấn,
truy tìm sự thiện hảo là gì? Ông bắt đầu tiến hành những đối thoại để đưa ra lý
lẽ đúng đắn nhất. Qua những cuộc đối thoại mà ông đã xây dựng thành công biện
chứng pháp của mình. Chúng ta sẽ xem qua một trong những cách thức và dẫn chứng
của phương pháp biện chứng đó chính là cách mà ông đi tìm định nghĩa cho đạo đức
học.
Trong cuộc đối thoại giữa Socrate
với Euthypro về đạo đức ta thấy: Euthypro đưa ra định nghĩa đạo đức là làm đẹp
lòng các vị thần minh, như là tố giác kẻ giết người, kể cả người thân, bạn bè
hay bất cứ ai. Còn vô đạo đức thì ngược lại, tức là làm điều không đẹp lòng thần
minh. Vậy điều đẹp lòng thần minh đâu chỉ có vậy, và làm sao giải thích sự hận
thù và đấu tranh giữa các vị thần minh?
Những điều làm cho con người khác
biệt nhau như là công bằng, bất công, thiện hay ác, danh dự hay ô nhục… và nếu
thần minh cũng có sự khác biệt như vậy thì sẽ thế nào? Vì con người ta thì yêu
mến công bằng, thiện hảo và ghét những gì trái ngược. Vậy phải chăng cùng một
thứ đối với thần minh lại có thể vừa là đạo đức lại vừa không đạo đức được? Hay
đúng hơn đạo đức và vô đạo đức chỉ là một. Vậy thì đạo đức phải chăng không được
thần minh yêu mến, xem ra mâu thuẫn. Đạo đức được các thần minh yêu mến vì nó
thánh thiện hay nó thánh thiện vì do các thần minh yêu mến? Mà có những cái đẹp
lòng các thần minh thì không thánh thiện? Điều tốt đáng yêu vì đẹp lòng hay vì
được yêu nên nó tốt lành? Lập luận cứ đi vòng vo thì cuối cùng không thế này sẽ
là thế khác.
Rõ ràng những gì mang tính đạo đức
thì nhất thiết phải chính trực và những gì chính trực đều mang tính đạo đức. Một
phần đạo đức hay thánh thiện là phần công lý hướng đến phục vụ các thần minh và
phục vụ con người, điều này đúng hay sai?
Như vậy, qua
việc tìm hiểu đối thoại ta có thấy:
Đạo đức nếu chỉ
là cái làm đẹp lòng Thần thánh là không hợp lý, vì Thần thánh thì rất đa dạng,
vì thế làm đẹp lòng thần này thì mất lòng thần khác… rất khó chiều theo ý thần
minh để làm đẹp lòng các ngài.
Nếu đạo đức là
điều mà Thần thánh yêu mến thì ta cũng chưa thể tìm thấy được chủ thể là ở chỗ
nào. Vì đạo đức là gì để tôi hành động cho đúng vì nó là những gì thần minh yêu
mến, mà thần minh thì yêu mến rất nhiều thứ…
Đạo đức chỉ là một
phần công bằng phục vụ các thần minh thì xem ra mâu thuẫn, vì làm gì có sự công
bằng giữa con người và các thần minh. Thần minh có thể nhìn thấy nhu cầu cần
thiết của con người để phục vụ theo cách ban ơn còn con người làm gì biết được
nhu cầu của thần minh, và thần minh đâu cần đến con người phục vụ. Thần thánh
là loài thiêng liêng, con người luôn lệ thuộc vào thần thánh, việc làm con người
nhiều khi đi ngược ý muốn của thần thánh, làm sai ý thần thánh, vậy làm gì có sự
công bằng.
Đạo đức là sự
dâng hiến cho các thần minh và lãnh nhận từ các thần minh khó chấp nhận. Bởi vì
con người không biết hết nhu cầu của thần minh, vì thế con người sẽ dâng hiến
gì cho thần thánh để vừa lòng. Tốt cho thần thánh nhiều lúc lại đi ngược với
cái mà thần thánh yêu mến.
Con người nhận
được từ thần thánh là theo lối nhận ơn, vì thế con người có bổn phận đền đáp thần
thánh bằng lời tạ ơn và không khi nào lời đền đáp đó là thỏa đáng cho công bằng.
Không phải hành vi đạo đức con người thực hiện là bởi vì nó luôn được thần minh
yêu mến hay bất cứ hành vi nào mà thần minh yêu mến đều là đạo đức.
Qua việc suy tư về bản chất đạo đức
và hành vi đạo đức, giúp ta phần nào hiểu được cách thức mà Socrate tách logos
(nền tảng tri thức luận) ra khỏi Mythos (lối giải thích thực tại dựa vào huyền
thoại). Đó chính là dùng lối văn giải thích của phương pháp biện chứng luận, tự
suy tư để đưa ra nhận thức qua sự hiểu biết của mình không còn đi lại truyền thống
kể chuyện nữa. Socrate đề cao lý tính, nghĩa là phải suy tư vì nhờ suy tư con
người mới tồn tại. Socrate đã khai mào cho việc suy tư triết học vượt quá sự
suy tư của huyền thoại, nhờ việc khuyến khích con người dùng lối suy tư phản tỉnh,
phê bình để xem xét những vấn đề của nhân loại mà chính huyền thoại đã đưa ra.
Nhờ phương pháp biện chứng này, Socrate đã thôi thúc người ta giải thích và biện
minh những xác tín lâu nay vốn đã thành truyền thống và huyền thoại.
JOSEPH - HUONG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét