Thứ Bảy, 1 tháng 10, 2016

ĐỐI THOẠI VỚI NGƯỜI NGHÈO





Dẫn nhập

Công việc tông đồ truyền giáo, cần để ý đến vấn đề nghèo đói, vì đây là một thực trạng đang đè nặng trên một số rất đông dân chúng và mỗi ngày mỗi trầm trọng. Chính vì vậy mà Đức Gio-an Phao-lô II đã ra nhiều thông điệp nhằm thăng tiến con người và cải thiện tình trạng nghèo đói[1]. Sự nghèo đói biểu hiện dưới nhiều hình thức và có nhiều bộ mặt khác nhau. Hình thức trầm trọng nhất là tình trạng nghèo đói kinh niên, theo bản thống kê của tổ chức lương nông quốc tế (FAO), công bố vào dịp Đại Hội tháng 12 năm 2006, hiện nay có 800 triệu người bị đói kinh niên. Tình trạng trầm trọng này chắc chắn kêu gọi tình thương yêu của Giáo Hội, và tinh thần thương yêu của các nhà truyền giáo.
Trong việc phục vụ và thăng tiến người nghèo, các vấn đề được bàn tới trong bài này được thu gọn lại trong những lãnh vực chính yếu sau đây: Về thần học: chỗ đứng của việc phục vụ người nghèo trong công tác mục vụ truyền giáo của Giáo Hội; về tu đức: mối bận tâm chính yếu hiện nay là sự trung thực của việc phục vụ người nghèo như công tác công đồ; về mục vụ: nêu ra những thực trạng, hướng giải quyết và phương tiện trong việc phục vụ người nghèo.
I. KINH THÁNH VỚI NGƯỜI NGHÈO
1. Người nghèo trong Cựu ước
Người nghèo (Anawim) luôn được Thiên Chúa bênh vực vì họ thường bị ngược đãi và áp bức. Thiên Chúa bênh đỡ người nghèo và nghe tiếng kêu cứu của họ. “Nếu ngươi cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền, … thì không được bắt nó trả lãi”(Xh 22,20-26).
Luật đòi phải giúp đỡ những người nghèo: không được cầm cố của cải của người nghèo qua đêm; đừng giành lấy những gì dành cho người nghèo (xc. Đnl 24,17-22).
Người nghèo là người đáng được kính trọng và phải sống bác ái với họ. Sách Huấn ca lên tiếng bênh vực người nghèo : “Con ơi, đừng đoạt miếng cơm manh áo của người nghèo. … Đừng làm cho người đói phải buồn tủi, đừng chọc tức ai khi họ phải ngặt nghèo… Hãy lắng nghe người nghèo, và nhã nhặn chào lại họ” (4,1-10).
Thiên Chúa lắng nghe người nghèo và lời nguyện của họ vượt ngàn mây thẳm. Đức Chúa sẽ không trì hoãn, không bắt họ đợi lâu. Thiên Chúa không vị nể mà làm hại kẻ nghèo hèn. (xc. Hc 35,12.18). Với người nghèo, hãy rộng tay ban phát, vì như thế sẽ được Thiên Chúa thương giáng phúc (Tv 111).
2. Giáo huấn của Đức Giê-su trong Tin mừng
Lc 4, 16-22 : “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn”.
Tin mừng ưu tiên đặc biệt tới người nghèo, vì họ là những người thuộc thành phần hạ đẳng trong xã hội, gọi chung là những người nghèo khổ và bị áp bức. Sự đau khổ của người nghèo không phải vì họ thiếu thốn, đói khát cho bằng phải chịu xấu hổ và nhục nhã. Người nghèo phải lệ thuộc người khác, không có danh giá, không vinh dự. Cuộc đời của họ vô nghĩa. Đó là lý do tại sao trong Tin Mừng, từ "nghèo" có thể hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả những ai bị áp bức, những người lệ thuộc vào sự thương hại của người khác. Đó cũng là lý do tại sao "nghèo" có thể bao gồm tất cả những ai hoàn toàn cậy dựa vào lòng thương xót của Thiên Chúa, là người có tinh thần nghèo khó (Mt 5,3). Đức Giê-su hiện diện nơi người nghèo để bênh vực và chở che họ (Mt 25,31-46).
Khi đứng về phía người nghèo, Đức Giêsu đã thực sự chung đụng với họ, đồng bàn với họ. Qua cử chỉ này, Ngài giúp họ thoát khỏi mặc cảm xấu hổ, nhục nhã, tội lỗi. Khi tỏ cho họ biết rằng, đối với Ngài, họ là những con người được tôn trọng, thì Ngài giúp họ ý thức về phẩm giá con người. Đức Giê-su luôn để ý đến những người nghèo và gọi họ là những người có phúc (x. Mt 5,5) và kêu gọi họ đến với Ngài để được an ủi (Mt 11,28).
Về phía họ, vì thấy Đức Giêsu được người ta coi như một người của Thiên Chúa và một Ngôn sứ, họ có thể giải thích cử chỉ thân tình của Ngài như một cử chỉ chứng tỏ chính Thiên Chúa chấp nhận họ (xc. Mc 12,38-44), gián tiếp tha thứ tội lỗi của họ. Hành vi đồng bàn của Đức Giê-su, chữa lành bệnh tật, họ đều hiểu như dấu chỉ của ơn tha tội. Do đó mà họ vui, vui cùng với Đức Giêsu là người giải thoát họ.
3. Nước Trời dành cho người nghèo
“Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Loan báo Tin Mừng cũng là một thành phần của công trình giải thoát. Nội dung của lời rao giảng là Nước Thiên Chúa đã đến, đến cho người nghèo khổ và bị áp bức (Lc 4 16-22). Nền tảng Nước Thiên Chúa là các mối phúc (Lc 6,20) và trước tiên, nước đó ở ngay giữa thế gian, khi người nghèo không còn nghèo, người bị áp bức thoát ách khốn khổ. Lời rao giảng của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa làm cho người ta hy vọng và nước đó trước tiên không phải là một thực thể ở trên trời, nhưng là một tình trạng tương lai ở thế gian, khi người nghèo không còn nghèo, không còn bị áp bức. Khi nói "Nước của tôi không thuộc thế gian" không có nghĩa là nước đó hiện hoặc sẽ không ở trong thế gian này. Phải hiểu lời đó theo cách sử dụng từ của Gioan. Trong Tin mừng Gioan (17,11-14.16), Đức Giêsu nói Ngài và các môn đệ đều ở trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Cũng phải hiểu như vậy về Nước Thiên Chúa : Nước Thiên Chúa ở giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian, vì các giá trị của nó khác và ngược với các giá trị của thế gian.
Đức Giêsu tố giác sự phân biệt giai cấp giàu nghèo (xc. Mt 19,23-26; 25,31-46), cho thấy phải đặt lên hàng đầu phẩm giá con người, chứ không phải danh giá hay địa vị. Có thể thấy thí dụ trong việc Ngài lên án người biệt phái tìm danh giá nơi dân chúng. Đó là hạng người đạo đức giả. Không có chỗ cho họ trong Nước Thiên Chúa, nơi không còn phân biệt đẳng cấp, nơi mỗi người được yêu thương tôn trọng trong tư cách con người, nơi dành cho những ai hoán cải nên như con trẻ, tức những người không địa vị, không thế giá, trong đó cụ thể là những người nghèo khổ và bị áp bức.
Khi dạy người ta hoán cải nên như con trẻ để có thể vào Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu cho thấy trẻ em ở đây là hình ảnh sống động về sự nhỏ bé, thấp kém, trái với cao sang, địa vị, danh giá, nên là biểu tượng của tất cả những ai có địa vị thấp kém nhất trong xã hội, và của những người biết từ bỏ mọi tham vọng về danh giá, địa vị.
II. NGƯỜI NGHÈO, DẤU CHỈ CỦA THỜI ĐẠI
1. Ý thức về thực tại của sự bất công
Trong thế giới hôm nay, sự bất công và hố phân cách giữa người giàu và người nghèo; giữa người có chức quyền với những người thấp cổ bé miệng trở nên phổ biến hơn bao giờ hết. Hàng trăm triệu người thất nghiệp, sống dưới mức nghèo đói và nhất là họ không nhận được đồng lương xứng với công sức lao động của họ. Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (SRS) cho thấy “hố ngăn cách luôn tồn tại và ngày càng mở rộng giữa các khu vực…” (số 14). Thông điệp này cũng cho thấy cơ cấu xã hội bất công tràn lan và đó là sản phẩm của sự độc ác nơi con người.
Những bất công của xã hội và sự chia rẽ giữa các quốc gia, các nền kinh tế, chính trị, chủng tộc, tôn giáo và ngay cả ý thức hệ đã làm cho người nghèo và những người bị áp bức sống bất công và không xứng với nhân phẩm. Nhân phẩm là “điều phải được kể đến, đó là phẩm giá ngôi vị con người, mà Đấng Tạo Hoá đã giao phó cho chúng ta phải bảo vệ và khuyến khích, và những người nam nữ trong tất cả hoàn cảnh xã hội, có trách nhiệm và mang nợ cách tuyệt đối với phẩm giá đó” (Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (SRS) số 47).
Để đối thoại với người nghèo, chúng ta không đi vào phân tích các con số và những thống kê, nhưng phải nhìn vào những con người cụ thể và độc nhất đang phải gánh chịu những bất công, sống không hy vọng. Đây cũng là điều mà Thông điệp SRS muốn trình bày, khi “đối diện với cảnh cùng cực và thiếu thốn của bao nhiêu anh chị em chúng ta, chính Chúa Giê-su tới chất vấn chúng ta” (số 13).
Ngày nay, có nhiều hình thức khác nhau về nghèo khổ, chẳng hạn như : giới hạn quyền của con người, quyền tự do tôn giáo, quyền tham gia vào việc xây dựng xã hội, v.V. Thiếu thốn những phương tiện cũng là một trong những điều làm cho những người nghèo phải chịu thua thiệt. Thông điệp Centesimus Annus của Đức Gioan XXIII, viết :
“Có nhiều người và có lẽ đa số, ngày nay không có những phương tiện để, một cách hiệu nghiệm và thích hợp với con người, đi vào trong một hệ thống xí nghiệp mà lao động chiếm một chỗ đứng trung tâm thật sự … Như vậy, họ không bị lợi dụng thì họ cũng đang sống trong tình trạng ngoài lề … Nhiều người khác, tuy không bị loại ra ngoài lề, cũng sống trong một hoàn cảnh phải phấn đấu để có một cuộc sống tối thiểu … Bất hạnh thay, đa số dân chúng trong Thế Giới Thứ Ba vẫn còn sống trong những tình trạng như vậy” (số 3).
2. Liên đới và phát triển
Sách Công vụ tông đồ cho ta một bằng chứng về tình liên đới với người nghèo: “Trong cộng đoàn, không ai phải túng thiếu, vì tất cả những người có ruộng đất, nhà cửa, đều bán đi, láy tiền đem đặt dưới chân các tông đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu” (4.34-35). Điều mà Thánh Phaolô luôn cố gắng để làm là nhớ đến những người túng thiếu (Gl 2,0).
Liên đới không phải vì một tình cảm thương hại, mơ hồ và hời hợt, nhưng trước nỗi đau và sự bất công của người nghèo, phải liên đới và dành lại cho họ quyền mà họ đáng được hưởng. Trong sứ điệp Ngày thế giới hoà bình, Đức Gio-an Phao-lô II đã nói lên tình liên đới và việc thăng tiến người nghèo: “Trong tinh thần liên đới và với những phương tiện đối thoại, chúng ta phải học : lòng tôn trọng tất cả mọi nhân vị; … giúp thăng tiến và tăng triển, dựa trên đức công bình và chân lý; thiết lập cơ cấu biến sự liên đới xã hội và sự đối thoại trở nên những đặc tính bền vững cho thế giới chúng ta đang sống”[2].
Con người ngày nay phải ý thức được rằng “vấn đề đối thoại với người nghèo” có một chiều kích quốc tế, nó không còn quy chiếu vào các quốc gia, nhưng là gia đình nhân loại. Dĩ nhiên, nghèo đói và bất công liên luỵ đến nhiều quốc gia hoặc cộng đồng riêng lẻ, nhưng chúng ta phải thấy được rằng mỗi người điều có liên đới và trách nhiệm chung đối với công cuộc phát triển các dân tộc. Đức Phaolô VI công bố thông điệp Phát triển các dân tộc (Populorum Progressio) đề cập đến tình hình của thế giới về tình trạng quốc tế hoá các vấn đề kinh tế và cho thấy tất cả mọi người đều có liên hệ và trách nhiệm với việc thăng tiến con người. Thông điệp trình bày nhiều phương thế phát huy liên đới xuyên qua việc viện trợ và hợp tác quốc tế, nhằm mục đích kêu gọi mọi người về hoàn cảnh của người nghèo và thực thi “công cuộc phát triển con người toàn diện của mọi người”. Việc phát triển này sẽ đem lại hoà bình cho thế giới[3].
Thăng tiến nhân phẩm và phát triển người nghèo là trả lại những gì là của họ, chứ không hẳn là bố thí hay thương hại. Những gì mà họ đáng được hưởng như bao người khác, những gì trước đây họ bị bóc lột, thì nay họ có quyền đòi lại và đó là quyền của con người. Đức Gio-an Phao-lô II đã sử dụng thành ngữ “sống vô vọng” để mô tả thảm trạng của con người trong cảnh khốn cùng tận tiệt, đang đoạ đày bao anh chị em chúng ta và những tình cảnh liên luỵ với thảm trạng này[4].
3. Chiều kích xã hội của Tin mừng
Trước cảnh nghèo khổ hiện nay trên thế giới, tất cả các Ki-tô hữu phải phản ứng như chính Đức Giêsu đã dạy: hãy cho kẻ đói ăn! Đây là cách thế để nói tới những nhu cầu khác của con người, thụ hẹp tình trạng cách biệt quá lớn giữa một số ít người giàu và đại đa số người bần cùng trong xã hội. Trong các thập kỷ 60 và 70, chủ nghĩa phát triển đã dấy lên thịnh hành, nhất là tại Châu Mỹ Latinh, khiến nhiều giới Ki-tô giáo hăng say dấn thân vào việc cổ võ công bằng xã hội, bởi coi đó là nhu cầu ưu tiên tuyệt đối. Chủ nghĩa ấy cũng đã ảnh hưởng trên các giới truyền giáo sâu rộng đến độ đưa tới nhiều xung đột. Dồn cả tâm lực lo cho việc phát triển, nhiều thừa sai “không còn thì giờ để làm công tác truyền giáo.” Đi xa hơn, có những người khác đã chủ trương tạm gác bỏ việc “thiêng liêng” lại để dồn hết khả năng lo cho việc giúp đỡ những người nghèo. Và cuối cùng, còn có kẻ cho rằng làm việc truyền giáo là góp phần làm cho tình cảnh bóc lột ra tệ hại thêm; thế nên, tốt hơn là đừng nói chi đến chuyện truyền giáo!
Cái khó là làm sao giữ cho được thái độ quân bình giữa hai đòi hỏi của Phúc âm là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân (x. Mc 12,28tt): cả hai đều thiết yếu, cả hai luôn đi đôi với nhau, và cả hai cũng chỉ là một bổn phận duy nhất (x. 1Ga 4,20).
Giáo hội biết mình được sai đến với muôn dân, và công tác truyền giáo đang tiến hành đặc biệt là giữa các tầng lớp dân nghèo, các quốc gia đang phát triển (xc. GS 9b, 6f, AA 14c); tại những nơi đó, nhiều nhu cầu vật chất hiện rõ, cực độ và bức thiết. Công đồng Vatincan II nhận định: “Trong lịch sử loài người, dù xét về phương diện trần thế, Phúc âm quả đã đóng vai làm men tự do và tiến bộ” (AG 8).
Giáo hội nhận ra sự tiến bộ của loài người không chỉ tuỳ thuộc ở số lượng thu nhập, song còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa, như yếu tố nhân bản: sự tiến bộ cốt tại ở điểm con người trở nên tốt hơn, chứ không phải ở việc có nhiều phương tiện vật chất hơn. Quả thực, trong thế giới có nhiều hình thức phát triển khác nhau; chính vì thế thông điệp Sứ Mệnh Đấng Cứu Độ (RM) đã nhận định về bổn phận của công tác truyền giáo đối với nỗ lực “phúc âm hoá” các trung tâm quyết định về mô mẫu cho việc phát triển xã hội, chẳng hạn như là các thành thị thời nay (x. Số 37).
Ki-tô giáo đặt nền tảng kiên vững cho một xã hội mới, qua một hệ thống giáo lý và đạo đức học minh chính về thế giới, về lao động, về nhân quyền, về bình đẳng, chống lại mọi hình thức phân biệt giai cấp, chủ nghĩa, tôn giáo, v.V. Trước kia, các hoạt động “văn minh hoá” được xếp vào loại công tác gọi là “tiền Phúc âm hoá” (pre-evangelization); nhưng Công đồng Vaticanô II đã chính thức coi đó là những hoạt động thuộc tác vụ “Phúc âm hoá” (x. AG, chương 3). Nhiệm vụ phát triển này là đặc nhiệm của giáo dân: bởi đã thông phần vào chức vụ vương giả của Đức Kitô (x. GS 36), nên giáo dân nhận được sức năng và bổn phận ra sức hoạt động thế nào để ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc cải thiện các cơ cấu xã hội, kinh tế, chính trị, văn hoá, v.V. Làm sao cho công bằng hơn. Quả thật, tự bản chất, những thành tích như thế có giá trị lớn trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa (x. AA 7).
Đức Phaolô VI đã quả quyết rằng tương lai của nhân loại tuỳ thuộc vào sự phát triển toàn diện trong mối liên đới trọn vẹn giữa tất cả. Do đó, truyền giáo học phải ra sức làm sao để biểu trình cho thật rõ mối quan hệ mật thiết giữa việc rao giảng Tin Mừng và công tác phát triển. Thông điệp Evangelii Nuntiandi viết:
Có nhiều mối quan hệ sâu xa giữa công tác rao giảng Tin Mừng và việc con người tiến bộ, giữa việc phát triển và nỗ lực giải phóng. Những mối liên hệ này có tính cách nhân học, vì con người được phúc âm hoá không phải là chuyện trừu tượng mà là một hữu thể thuộc lãnh vực xã hội và kinh tế, và cũng mang tính chất thần học, vì không thể tách biệt kế hoạch sáng tạo ra khỏi kế hoạch cứu chuộc. Việc cứu chuộc trải rộng để bao gồm cả việc cụ thể chống lại tình trạng bất công và nỗ lực khôi phục công bình. Chúng cũng đượm nhuần đặc thù tính của Phúc âm, tức là gồm chứa những đòi hỏi của tình thương: làm sao có thể loan báo điều răn mới, nếu không chịu dấn thân vào việc cổ vũ sự tiến bộ đích thực của con người, trong công bằng và hoà bình? (số 31).
Hơn bao giờ hết, trong thế giới ngày nay, mối quan hệ giữa Phúc âm và công bằng xã hội mang một ý nghĩa và một tầm quan trọng đặc biệt. Giữa nền văn minh mới hiện đang nhanh chóng biến thành phổ quát, những giá trị vật chất được nêu bật, đề cao, và tiêu chuẩn tiến bộ xem ra chỉ được rút ra từ những nhân tố kinh tế; kết quả là một tình trạng bất công toàn diện và toàn cầu.
Hiện tượng “toàn cầu hoá”[5] kéo theo nhiều thách đố lớn mà chắc hẳn Tin Mừng có thừa khả năng để góp phần giải đáp. Không có phương pháp kinh tế đặc thù và cũng chẳng mong quyền hành thế tục trong lãnh vực phát triển, nhưng vì liên đới với dân nghèo cũng như vì ảnh hưởng của kinh tế trên phạm vi luân lý và tôn giáo, nên Giáo hội có sứ mệnh tuyên bố những nguyên tắc đạo đức học cũng như tôn giáo khả dĩ soi sáng cho sinh hoạt của xã hội loài người; và đó cũng là mục đích của việc rao giảng Tin Mừng. Tông huấn Giáo Hội tại  Á Châu viết:
Trong khi phục vụ gia đình nhân loại, Giáo hội nhắm tới mọi người, ra sức cùng với họ xây dựng một nền văn minh tình yêu, đặt nền móng trên những giá trị phổ biến của hoà bình, công lý, tình liên đới và tự do, là những giá trị đã đạt đến được mức hoàn thành trong Đức Kitô... Tình trạng thiếu cân bằng ngày càng đập rõ vào mắt, càng trầm trọng hơn thêm, giữa những người hưởng lợi nhờ khả năng tăng trưởng của thế giới trong việc làm ra của cải, và những người bị bỏ rơi bên lề của đà phát triển; vậy, để con người được nhờ, thì những sai sót ấy phải được sửa đổi tận gốc, tức là từ não trạng cho đến những cơ cấu đã đẻ chúng ra. Thách đố luân lý to lớn hiện ra trước mắt các quốc gia và cộng đồng quốc tế, liên quan đến việc phát triển, là phải can đảm sống tình liên đới mới, với nỗ lực vận dụng khả năng hầu nghĩ ra và thực hiện những biện pháp hữu hiệu nhằm giải quyết tình trạng chậm phát triển phi-nhân-hoá cũng như đà ‘phát triển quá mức’ có khuynh hướng biến con người thành một đơn vị kinh tế trong mạng lưới tiêu thụ ngày càng bức chế ngột ngạt hơn (số 32).
Đức Gioan Phaolô II giải thích: “Hoạt động truyền giáo mang lại cho dân nghèo ánh sáng và niềm khích lệ trong nỗ lực phát triển đích thực, còn tác vụ Phúc âm hoá mới thì được tiến hành cho dân giàu, cùng với những kết quả khác nhau, ý thức rằng đã đến lúc tất cả đều phải thật sự trở nên anh chị em của nhau, ngõ hầu tất cả cùng nhau đồng hành tiến tới ‘mức phát triển trọn vẹn’ và mở rộng cho tới Đấng Tuyệt Đối” (xc. RM, số 59). Như vậy công tác rao giảng Tin Mừng và nỗ lực cổ vũ việc phát triển liên hệ chặt chẽ với nhau. Chỉ có điều phải tránh là đừng chuyên nhất làm điều này mà quên mất đi điều kia. Trong thực tế, hiện nay, hiếm có những thừa sai đi làm việc truyền giáo theo tư thế là ‘cá nhân’; việc truyền giáo thường được tiến hành qua hoạt động của các nhóm (hội dòng, giáo xứ, v.V.) và, vì thế, cần phải phân công tác vụ, tức là trong khi một số dấn thân vào việc xã hội, thì một số khác vẫn lo làm “dịch vụ của lời” (Cv 6,4; 2Tm 4,5) là phần chủ yếu. Dù sao, đã là thừa sai thì làm gì cũng phải làm vì Đức Kitô, nhân danh Ngài và để mở rộng vương quyền của Ngài.

III. GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI VỀ VIỆC THĂNG TIẾN CON NGƯỜI
1. Giáo hội ưu đãi đối với người nghèo
Công Đồng Vatican II trong Gaudium et Spes đã nêu những nguyên tắc thần học và mục vụ, như sau: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô. Quả vậy không có gì thực sự của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (số 1).
Giáo hội luôn cổ vũ và cố gắng giải quyết những vấn đề nghèo khổ và coi đây là sứ mạng của mình. Giáo hội cho biết rằng, nghèo khổ không phải là một sự nhục nhã và không nên hổ ngươi vì phải đổ mồ hôi mới có bành ăn, nếu họ không bị lợi dụng và bóc lột. Vì thế, giáo huấn của Giáo hội kêu gọi mọi người hãy nghe tiếng kêu than của các dân tộc nghèo khổ, để phục vụ và phát triển, phân phối cơm bánh cho họ, như nguồn tình thương huynh đệ và dấu chỉ của Chúa Quan Phòng[6].
Sách GLHTCG cho thấy sự chọn lựa ưu tiên dành cho người nghèo đó là tôn trọng tha nhân và các quyền lợi của họ (số 1889). Giáo hội nhận thức được mối quan tâm thường xuyên và sự xả thân đối với người nghèo, và ý thức được rằng họ là những người được Đức Giê-su thương mến. Chọn lựa ưu tiên của Giáo hội là đứng về phía người nghèo và đây cũng là hình thức đặc biệt ưu tiên trong việc thi hành công tác bác ái Ki-tô giáo[7].
Tông huấn Giáo hội tại Á Châu (Ecclesia in Asia) một lần nữa khẳng định tính ưu đãi của Giáo hội đối với người nghèo: “Trong khi tìm cách thăng tiến phẩm giá con người, Giáo hội ưu tiên yêu thương người nghèo và những người không có tiếng nói, vì Chúa đã tự đồng hoá mình với họ một cách đặc biệt (x. Mt 25,40). Tình thương ấy không loại trừ ai, mà chỉ thể hiện một sự ưu tiên trong phục vụ như toàn bộ truyền thống Ki-tô giáo đã làm chứng. ‘Ưu tiên yêu thương người nghèo và có những quyết định xuất phát từ tình thương ấy không gì khác hơn là muốn rộng tay đón nhận lấy hết con số đông đảo những người đói khát, túng thiếu, vô gia cư, những người không được y tế chăm sóc và nhất là những người không hy vọng có một tương lai tốt đẹp hơn’”(số 34).
Các giám mục Á Châu (FABC) đã quyết chọn lập trường đặc đãi đối với người nghèo làm hướng đi cơ bản cho Giáo Hội Châu Á. Cuộc họp tại Manila năm 1970, đã tuyên bố:
Quyết định của chúng tôi là tiên vàn, phải trở thành một cách trung thực hơn, ‘Giáo Hội của người nghèo.’ Muốn đứng về phía đại đa số người dân [nghèo] trong lục địa chúng ta, thì qua lối sống cụ thể của chúng ta, một cách nào đó, chúng ta phải chia sẻ cảnh nghèo của họ. Giáo Hội không thể dựng lên những hòn đảo phú quý, sung túc ngay giữa một đại dương túng quẫn, khốn cùng; đời sống của cá nhân chúng ta phải làm chứng cho tinh thần thanh đạm của Phúc âm, và không một người nào dù có thấp kém, nghèo hèn đến mấy cũng không cảm thấy khó để mà đến với chúng ta, để mà nhận thấy chúng ta thực là những người anh em của họ.”  Là “Giáo Hội của người nghèo”.
Việc quyết chọn đứng về phía người nghèo không những là điều do chính Đức Giê-su và sứ điệp của Ngài chỉ thị, mà còn là một đòi hỏi thúc bách của cảnh huống Á Châu , trong đó, những đám quần chúng không kể xiết đang quằn quại dưới ách nghiền nát của cảnh cùng khổ. Đại hội quốc tế Truyền giáo nhóm họp năm 1979 đã thẳng thắn bày tỏ: “Giáo Hội tại Châu Á không được lớp lớp quần chúng người nghèo coi là đã tận lực quan tâm đến quyền lợi chính đáng và nhân phẩm của họ, là đã dấn thân một cách vô vị lợi nhằm giải phóng họ, bằng một cuộc giải phóng toàn diện, khỏi cảnh bất công và áp bức giữa xã hội.”
FABC trong kỳ họp khoáng đại vào năm 1995, đã cảm thấy cần phải lên tiếng đẩy mạnh hơn nữa:
Như Đức Giê-su, chúng ta phải ‘đóng trại’ ở ngay giữa nỗ lực của toàn thể nhân loại, nỗ lực xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, nhưng đặc biệt là ở ngay giữa những người đau khổ và nghèo nàn, những người bị loại ra bên lề xã hội và bị chà đạp của Á Châu. Trong tình ‘liên đới với nhân loại khổ đau’ và được dẫn bước theo Thần Khí sự sống, chúng tôi thấy cần phải dìm mình vào trong các nền văn hoá của nghèo khổ và bần cùng tại Á Châu, bởi từ đáy sâu của chúng vang lên thảm thiết nhất, thúc bách nhất, tiếng của những khát vọng mong cho có được tình yêu thương và sự sống. Phục vụ sự sống đòi hỏi phải biết sống thông hiệp với tất cả những ai, nữ cũng như nam, đang tìm kiếm và đấu tranh cho sự sống, theo mẫu gương tình liên đới của Đức Giê-su với nhân loại.
2. Truyền giáo và thăng tiến nhân bản
Giáo hội không những lên tiếng kêu mời mọi người tham gia vào cộng việc bác ái từ thiện, mà còn bảo vệ phẩm giá của những người nghèo. Sự phát triển nhân bản trọn vẹn, tức là sự phát triển của mọi người và của trọn vẹn con người, cách riêng những người nghèo và những người xấu số, phải được đặt trong chính việc Phúc âm hoá. Có thể nói, việc Phúc âm hoá và thăng tiến con người là hai việc song song với nhau. “ÔCácín hữu phải xác tín rằng ánh sáng Phúc âm sẽ đổi thay các nền văn hoá ưu thắng hiện nay, đang tạo một bức chắn kỳ cục ngăn cản các đường lối tiến hành công cuộc phát triển và đe doạ tương lai của con người trên thế giới. Chúng ta cần loại bỏ nền văn hoá tiêu thụ, các ý hệ hoặc một lối nhẫn nhục thụ động trước những đau khổ và nghèo túng của từng khối người”.
Thăng tiến nhân bản và giải phóng, là một chiều kích nội tại của tác vụ Phúc âm hoá, cũng như việc cần phải nhắm tới tiến trình phát triển toàn vẹn và toàn diện. Đức Kitô theo tư thế là Đấng Giải Phóng, Giáo Hội như là “Giáo Hội của người nghèo,” công cuộc cứu độ như là một công trình bao gồm cả cuộc giải phóng xã hội, kinh tế và chính trị, các cộng đoàn Ki-tô cơ bản, và kỹ thuật phân tích xã hội, coi đó là một nhân tố nằm trong bản chất của phương pháp thần học.
Nhãn quan thần học của FABC đối với công tác phát triển nhân bản là đề xuất một phong cách mới cho đời sống Giáo Hội, không phải như là một dạng Giáo hội học trừu tượng mới lạ, nhưng như là một lề lối hành động mới trong cuộc sống cụ thể của hết mọi Ki-tô hữu. Giáo Hội Châu Á hướng tới ‘một phong cách mới trong lối sống Giáo Hội’ một Giáo Hội biết quyết tâm trở thành ‘một cộng đồng các cộng đoàn,’ một dấu chứng khả tín của ơn cứu độ và của giải phóng.
3. Công cuộc truyền giáo và giải phóng con người
Công việc   truyền giáo cũng có liên hệ chặt chẽ với chính bản tính và những ước vọng của con người” (AG số 8a). Nếu công việc truyền giáo là khí cụ trong kế hoạch Thiên Chúa ấn định, thì không thể không có tác dụng đến chính bản thân và đời sống cụ thể của từng con người.
Công ích số một của một xã hội và của nhân loại là hoà bình. Đức tin cho biết rằng hoà bình là ơn Chúa ban, và nguồn cội hoà bình là Đức Kitô. Thư Ê-phê-sô giải thích: “Ngài là bình an của chúng ta... Ngài đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét... Nhờ thập giá, Ngài đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Ngài đã tiêu diệt sự thù ghét. Ngài đã đến loan Tin mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần” (Ep 2:14-18). Vì thế, làm cho mọi người nhận biết và theo gót Đức Kitô là làm cho họ được sống an bình.
Kitô giáo cống hiến một vũ trụ quan mới, giúp nhân loại ý thức về phẩm giá của nhân vị (nhân phẩm). Truyền thống đã quan niệm kế hoạch Thiên Chúa theo hai phương diện: tạo hoá và thánh hoá, hoặc tiến bộ vật chất và tiến bộ thiêng liêng. Công đồng Vaticanô II nhắc nhở rằng: “Thực ra, trong lịch sử loài người, ngay cả về phương diện trần thế, từng là men tự do và tiến bộ, Phúc âm còn không ngừng tỏ ra là men huynh đệ, hiệp nhất và hoà bình” (AG số 8). Kitô giáo nêu bật điều này là mọi người đều bình đẳng, có bình quyền như nhau, không phân biệt quý phái hay bình dân, nam hay nữ, chủng tộc hay màu da, v.V.; đó là cơ sở chủ yếu của nền văn minh mới.
Hoạt động truyền giáo nhắm tới con người, vì thế, truyền giáo đi đôi với công việc giáo dục (mở các trường học) và dịch vụ y tế (bệnh viện, trại phong cùi, v.V.), cũng như mọi sáng kiến phát triển địa phương. Tại nhiều nơi, hai nỗ lực “kitô hoá” và “văn minh hoá” chỉ là một. Vì Giáo hội là thân mình Chúa Ki-tô, đi đâu Giáo hội cũng ra sức phục vụ loài người trong những nhu cầu thiết yếu.
Chính vì lý do như thế, nên bao giờ công tác truyền giáo cũng cần phải có đức bác ái làm động cơ và cùng đồng hành. Tiêu đích tình thương nhắm tới là lợi ích của con người, lợi ích về mọi phương diện: vật chất cũng như thiêng liêng, trần thế cũng như vĩnh viễn, cá nhân cũng như thập thể, v.V. Vaticanô II giải thích rằng: “Các chi thể của Giáo hội phải được bác ái thúc đẩy, vì nhờ đó, họ yêu mến Thiên Chúa và ước ao san sẻ cho mọi người các ân huệ thiêng liêng của đời này và đời sau” (AG số 7b).
4. Giải phóng khỏi nô lệ của tội lỗi
Huấn quyền về học thuyết xã hội của Giáo hội giúp chúng ta nhận thức rõ ràng hơn về sự giải phóng và thăng tiến con người, các khía cạnh khác nhau của chúng và mối liên hệ của chúng với Tin mừng và các hoạt động truyền giáo của Giáo hội hôm nay.
Sứ mạng cứu độ của Đức Ki-tô không mang tính chính trị, kinh tế hay xã hội, nhưng thuộc bình diện tôn giáo. Sứ mạng của Giáo hội là cống hiến, phát triển và góp phần xây dựng cộng đồng nhân loại theo luật của Thiên Chúa. “Cũng thế, khi có nơi nào cần, chính Giáo hội có thể và hơn nữa, phải phát động, tuỳ theo hoàn cảnh, thời gian và nơi chốn, những công cuộc nhằm phục vụ mọi người, nhất là những người cùng khốn, thí dụ như các công cuộc từ thiện, hoặc những tổ chức khác tương tự” (GS, số 42). Sứ vụ rao giảng Tin mừng cũng bao hàm việc lưu tâm đến những người nghèo, người bị áp bức và bị bóc lột. Chính trong sứ vụ này, Giáo hội góp phần thăng tiến, giải phóng và đưa con người tới tình trạng ban đầu. Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis nhấn mạnh : “… Việc lựa chọn hay tình yêu dành cho người nghèo. Đó là một sự lựa chọn, hay là một hình thức riêng biệt của sự ưu tiên trong việc thi hành đức ái Ki-tô giáo mà truyền thống của Giáo hội minh chứng. Đức bác ái đó liên hệ tới sự sống của mỗi Ki-tô hữu, bao lâu họ bắt chước sự sống của Chúa Ki-tô” (số 42).
Việc phát triển các cơ cấu xã hội bất công đã khơi dậy sự nhạy cảm Ki-tô giáo và làm nổi bật sự cấp bách của các quyết định. Đối với Giáo hội, việc Phúc âm hoá không phải là một lý thuyết, nhưng động lực thúc đẩy hành động. Thông điệp Centesimus Annus viết : “… ngày nay hơn bao giờ hết, Giáo hội ý thức rằng sứ điệp xã hội của mình sẽ lấy được sự tin tưởng do chứng từ của hành động còn hơn là do kết quả của lý luận và sự bền bỉ nội tâm. Ý thức này cũng là nguồn gốc của sự lựa chọn của Giáo hội đứng về phía người nghèo…” (số 57).
Giáo hội khuyến khích các Ki-tô hữu hành động và làm cho sứ điệp Tin mừng thực sự giải phóng con người ra khỏi tình trạng nghèo đói, bất công và bị khinh thị. Nhưng trước tiên, sự giải phóng này chủ yếu là giải phóng khỏi nô lệ căn bản của tội lỗi. Cùng đích của nó là sự tự do làm con cái Chúa, ân huệ của ân sủng. Thứ đến, việc giải phóng nhắm đến những thứ nô lệ thuộc phạm vi văn hoá, kinh tế, xã hội và chính trị, chung cuộc tất cả những thứ nô lệ này đều bắt nguồn từ tội lỗi và chúng tạo nên bao nhiêu cản trở ngăn cản con người sống đúng phẩm giá của mình[8]. Dựa trên sứ điệp của Đức Ki-tô, Giáo hội luôn ý thức được rằng, sự giải phóng con người toàn diện là thái độ xã hội của người Ki-tô hữu và đây là chiều kích cơ bản của tư cách làm môn đệ Chúa Ki-tô[9].
5. Phát triển nhân bản và Phúc âm hoá
FABC lưu ý về điểm trọng yếu này: đối với các giám mục Á Châu, việc tách hoạt động xã hội nhằm vào nỗ lực phát triển nhân bản, ra khỏi hai hoạt động khác trong các Giáo Hội Á Châu  – tức công cuộc đối thoại liên tôn và công tác hội nhập văn hoá – là một sai lầm trầm trọng về mặt thần học. Quả thế, các văn kiện về công cuộc đối thoại liên tôn và công tác hội nhập văn hoá thường đề cập dài rộng đến vai trò của Giáo Hội trong nỗ lực thăng tiến việc phát triển nhân bản. Vì vậy, cần phải lưu tâm cho đủ đến cả hai lãnh vực hoạt động ấy trong tác vụ của Giáo Hội.
Công cuộc Phúc âm hoá phải được diễn ra bằng đối thoại “qua một nỗ lực hội nhập văn hoá cương quyết hơn, có sức sáng tạo phong phú hơn, và cả óc nhận định chính thực cùng tinh thần trách nhiệm cao độ hơn; qua một cuộc đối thoại liên tôn tiến hành với tất cả thái độ nghiêm chỉnh; qua tình liên đới và hành động chia sẻ với người nghèo, cũng như qua hoạt động bênh vực cho nhân quyền...”[10].
Đối thoại với người nghèo là “việc phát triển nhân bản toàn vẹn” Nghị quyết của Cơ quan hoạt động xã hội thuộc Liên hiệp các giám mục Á Châu lần thứ ba[11] nhận định rằng: “Chúng ta cần phấn đấu để xây dựng một xã hội mới trong đó, mọi người có được cơ may đạt đến mức phát triển toàn vẹn về mặt nhân bản. Hoạt động của chúng ta phải nhằm tới việc phát triển con người toàn diện và cho mọi người. Tính chất toàn diện ấy của con người bao gồm không những mức thành toàn sung mãn cá nhân, mà cả mức tăng trưởng và triển nở của toàn bộ thực tại trên mặt đất nữa.” Như thế, việc phát triển nhân bản (1) là một chiều kích chủ yếu trong sứ mệnh Phúc âm hoá của Giáo Hội, và (2) cần phải nhắm tới con người toàn vẹn.
Nếu quan hệ giữa công tác Phúc âm hoá và hoạt động nhằm phát triển nhân bản không phải là chuyện ngẫu nhiên, mà trái lại, là một quan hệ chủ yếu, thì – theo nhận định FABC thường xuyên nêu lên – xét vì hiện trạng nghèo đói của đông đảo quần chúng và tình cảnh áp bức tràn làn trong khắp các miền xứ Á Châu, mối kết liên ấy lại càng có tính cách quyết định và bách thiết hơn đối với các Giáo Hội Á Châu. Trong lần họp khoáng đại đầu tiên, FABC đã tuyên bố: “Chúng tôi xác tín rằng từ trong cảnh bần cùng dân nghèo chúng ta đang sống, cũng như từ tiềm năng nhân bản cừ khôi của họ, và từ niềm khát vọng đang sôi động trong lòng họ, mong thấy được một thế giới tràn đầy tình người và tình huynh đệ, Đức Kitô hiện đang cất tiếng kêu gọi các Giáo Hội Á Châu” . Cũng vậy, “nếu hàng triệu triệu người dân Á Châu  hiện đang sống trong cảnh nghèo đói, trên hết Giáo Hội tại  Á Châu phải là Giáo Hội của người nghèo”. Và như thế, thực thi công bằng là một yếu tố của sự thánh thiện. Công tác Phúc âm hoá và nỗ lực phát triển là hai việc làm không đối nghịch nhau. Tại Á Châu ngày nay, các hoạt động ấy là một phần không thể thiếu của công tác rao giảng Tin Mừng.
IV. ĐỐI THOẠI BẰNG THẦN HỌC
1. Thần học giải phóng
Để thăng tiến cả về phương diện phát triển đời sống lẫn phẩm giác con người, thần học giải phóng đã trình bày một phương pháp làm thần học trong và bởi “dân chúng”, nghĩa là những người thuộc các giai cấp xã hội cùng chia sẻ và quan tâm tới những người bị thống trị và áp bức, người nghèo và bị coi khinh về văn hoá, trình độ, v.v.
Thần học giải phóng đưa ra ba bình diện có ý nghĩa liên quan đến vấn đề[12]:
- Xã hội học : giải phóng như sự khát vọng của các dân tộc và giai cấp xã hội bị áp bức, nhấn mạnh khía cạnh mâu thuẫn trong quy trình phát triển kinh tế, chính trị và xã hội khiến họ xung đột với các nhà giàu và các giai cấp bóc lột.
- Lịch sử : giải phóng được áp dụng cho sự nhận thức lịch sử, trong đó loài người đảm nhận trách nhiệm về số phận của chính mình.
- Thần học : giải phóng như là sự giải thoát khỏi tội lỗi và chấp nhận một đời sống mới trong Đức Ki-tô, Đấng làm cho con người tự do thực sự và giúp họ sống trong sự hiệp thông, là cơ sở cho mọi liên đới giữa con người.
Phương pháp luận của thần học giải phóng:
- Phân tích : thần học giải phóng nhằm phân tích mọi hoàn cảnh hiện có về văn hoá xã hội, kinh tế, chính trị. Việc phân tích này sẽ bộc lộ những cơ cấu và những thế lực bóc lột đang hoạt động trong xã hội. Đó là nguyên nhân tạo nên cơ cấu tội lỗi đưa người nghèo vào tình trạng nô lệ.
- Suy tư : thần học giải phóng sẽ phơi bày những hình thức áp bức khác nhau, bao gồm chế độ gia trưởng, trong nam khi nữ, miệt thị những bộ lạc, dân tộc thiểu số, người da đen., những người có địa vị thấp. Nhiệm vụ của thần học là phê bình quá khứ và hiện tại của chính mình.
- Trở về với Kinh thánh: suy tư về truyền thống và thần học của quá khứ để tìm lại những biểu tượng tôn giáo và các khái niệm của các truyền thống Kinh thánh và lịch sử có ảnh hưởng mạnh trong quá khứ[13]. Đồng thời tìm lại chiều kích chính trị và xã hội của đức tin và sứ mạng của Hội thánh.
Thần học giải phóng cho thấy : giải phóng, tự do, phát triển và cứu độ ở đây và bây giờ không phải là các dấu chỉ về Nước Thiên Chúa, nhưng là sự khai mào của Nước Thiên Chúa.
2. Thần học hướng đến người nghèo[14]
Thông điệp Sứ Mệnh Đấng Cứu Thế nhận ra sự hiện diện đầy ắp yêu thương của Thiên Chúa và chan chứa niềm hy vọng :
- Thiên Chúa đang rộng mở cho Giáo Hội những chân trời của một nhân loại sẵn sàng đón nhận hạt giống Phúc âm (số 3).
- Trước thềm đệ tam thiên niên của ơn cứu độ, Thiên Chúa đang chuẩn bị một mùa xuân Ki-tô tươi sáng mà tôi thấy đã bắt đầu chớm nở (số 86)
- Tôi nhìn thấy đang ló rạng ló một thời đại truyền giáo mới, sẽ triển nở tới ngày tươi sáng và nặng trĩu hoa trái, nếu tất cả các tín hữu của Chúa, đặc biệt các nhà tông đồ truyền giáo và các giáo hội trẻ đáp ứng lại các đòi hỏi và thách đố của thời đại này với lòng quảng đại và đời sống thánh thiện (số 92).
Như thế, điều mà người nghèo cần là trình bày cho một Đức Giê-su với khuôn mặt của người nghèo. Chỉ có Chúa Giêsu mới là Đấng cứu chuộc và giải thoát con người. Dân chúng, cả những người nghèo nhất, không cần chúng ta, sự trợ giúp và công việc của chúng ta, nhưng họ cần Chúa Giêsu... Cần phải suy niệm những điều này nhiều giờ trong kinh nguyện, nghiền gẫm đến độ có thể gặp được Chúa Giêsu trong tâm hồn và thấy vui sướng được gặp gỡ Ngài và sống say sưa với Ngài.
ĐHY Stephen Kim phát biểu: “Công việc loan báo Tin Mừng cần phải được nhập thế vào trong các thực tại của cuộc sống, hiện đang chi phối hoặc biểu lộ các ước vọng thâm sâu của con người. Trong chiều hướng đó, công việc truyền giáo phải chú tâm đến các hoàn cảnh đang chi phối cuộc sống của con người thời đại, để tìm ra những đòi hỏi thiết yếu cho sứ mệnh của Giáo Hội”[15].
3. Một nền thần học thực sự giải phóng
Lòng thương xót và sự nhạy cảm đối với tất cả những ai đau khổ (người bệnh, người nghèo, người bị áp bức...) là một diễn tả hoà hợp với bản tính của đức tin Ki-tô giáo và đời sống của Giáo hội, vì đó là những diễn tả và nhu cầu của tình yêu, vốn là bản tính của Giáo hội. Một đàng, Giáo hội sinh ra và được dưỡng nuôi trong tình yêu của Chúa Ba Ngôi[16]. Tình yêu đối với Thiên Chúa luôn gắn liền với tình yêu đối với đồng loại (xc. Lc 10,25-27; 1Ga 4, 19-21). Tình yêu trung thực là trở nên nhạy cảm và chú tâm đến những người yếu đuối và đau khổ. Chính vì vậy, việc phục vụ người nghèo, người đau ốm, tàn tật, luôn gắn liền với đời sống và là truyền thống của Giáo hội.
Trong lịch sử, nhiều Dòng tu đã được hình với mục đích xoa dịu các đau khổ của nhân loại trong việc phục vụ các bệnh nhân, cô nhi quả phụ và người nghèo. Trong tâm trí dân chúng, cuộc sống của Giáo hội thường gắn liền với hình ảnh một linh mục hay nữ tu bên cạnh giường bệnh trong các nhà thương, trong các trại cùi, viện mồ côi, hoặc lăn lộn với dân chúng trong cuộc sống cực khổ hàng ngày.
Ngày nay trong lãnh vực thần học người ta không còn đặt ra vấn đề nếu Giáo hội phải hay không phải phục vụ người nghèo, nhưng coi đó là chỗ đứng và chiều kích của việc phục vụ người nghèo trong công tác mục vụ truyền giáo của Giáo Hội. Vấn đề này được đặt ra cho các nhà thần học là những người có kiến thức nhiều về thần học. Các thần học gia châu Mỹ Latinh,[17] coi việc phục vụ người nghèo như công tác căn bản hoặc công tác duy nhất của Giáo Hội, và như điều kiện duy nhất để nên thánh. Nhưng cũng đừng quá chú tâm vào một việc mà làm cho các lãnh vực khác của công tác mục vụ của Giáo hội bị bóp nghẹt để đồng hoá với việc phục vụ người nghèo. Tất cả phải được quy tụ để phục vụ người nghèo, nhưng Phúc âm và việc giới thiệu Đức Giê-su cho họ phải được nhắc đến, chứ không chỉ được dùng như một thứ dụng cụ và phương tiện hữu ích. Như vậy thì vấn đề nằm ở chiều sâu của đức tin và của tinh thần. Đó là vấn đề đặt nền tảng, căn nguyên cho đời sống và đức tin Ki-tô giáo.
Cần phải xác định rõ căn bản của Ki-tô giáo không phải là người nghèo, hay bất cứ một thụ tạo nào khác, mà là Chúa Giê-su. Người tín Ki-tô hữu là người đã khám phá được là chính Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế, là nguồn sống, nên nhất quyết tin thờ Chúa, dâng hiến cuộc sống cho Chúa và lấy mầu nhiệm Chúa làm ánh sáng hướng dẫn cuộc sống. Trong chiều hướng đó, người tín hữu tập rộng mở con tim để yêu thương mọi người như Chúa đã thương yêu họ. Chỉ trong nhãn giới đó, các việc tông đồ mục vụ, trong đó có việc phục vụ người nghèo, mới tìm ra được đúng cương vị và chiều kích của nó. Vấn đề người nghèo là vấn đề trầm trọng, đòi hỏi sự chú tâm đặc biệt, nhưng không thể coi đó là vấn đề mục vụ duy nhất. Vì vậy, việc phục vụ người nghèo là một ơn gọi. Và trong khi phục vụ người nghèo, cũng phải biết tôn trọng và quí mến những người phục vụ ở các lãnh vực khác, cho các tầng lớp dân chúng khác, vì Chúa Giê-su phải tới tất cả để cứu vớt tất cả. Thần học vừa tìm cách giải phóng những người nghèo khổ, nhưng đồng thời cũng cho thấy yếu tố tội lỗi đã làm cho vấn đề trở nên trầm trọng hơn. Chính vì vậy, việc giải phóng phải hướng tới bình diện tu đức nữa.
4. Canh tân đời sống thiêng liêng
Khi rao giảng Tin mừng, Đức Giê-su luôn gần gũi những người đau ốm, người nghèo khó và những người tội lỗi để an ủi và cứu vớt. Sự hiện diện này làm thay đổi cuộc sống và canh tân tinh thần của họ. Từ sự kiện đó, một vấn nạn căn bản đối với công tác tông đồ phục vụ người nghèo phải được đặt ra: sự hiện diện, lời nói và việc phục vụ của người tông đồ có giúp cho người nghèo thay đổi cuộc sống và đổi mới tâm hồn họ không? Vấn đề nòng cốt trong công tác phục vụ tông đồ đối với người nghèo:
3.1. Chọn lựa cơ bản
Việc phục vụ người nghèo phải phát nguồn từ sự chọn lựa Chúa Giê-su. Ngày nay người ta nói nhiều đến sự chọn lựa người nghèo, nhưng trên hết phải chọn lựa Chúa Giê-su. Tất cả các công tác mục vụ là hậu quả và áp dụng cụ thể của sự chọn lựa này. Thiên Chúa thương yêu nhân loại quá độ đến nỗi đã ban Con Một cho nhân loại (Ga 3, 16-18). Như thế, dấn thân phục vụ người nghèo là kết quả của tình yêu khăng khít với Chúa. Do vậy, nếu tách rời ra khỏi sự chọn lựa này, các công tác mục vụ sẽ biến đối tượng thành ngẫu tượng và trong trường hợp phục vụ người nghèo, sự lựa chọn người nghèo mà người ta thường nói sẽ chỉ là sự lựa chọn chống đối người giàu. Việc phục vụ người nghèo nguy hiểm sẽ không còn phải là do tình thương yêu người nghèo, mà là do lòng ghen ghét và thù hằn người giàu.
Nhìn công tác phục vụ người nghèo như một thực hiện cụ thể của sự lựa chọn Chúa Giê-su, mối bận tâm thực sự trong công việc tông đồ truyền giáo không phải là phục vụ người nghèo, nhưng phục vụ người nghèo theo tinh thần của Chúa Giê-su. Đó là việc phục vụ phát nguồn từ một con tim đã có cảm nghiệm được Chúa Giê-su thương yêu và giải thoát, và do đó, có khả năng thương yêu thực sự và thương yêu đại đồng hết mọi người, không loại trừ ai.
Trong chiều hướng đó thì công việc phục vụ người nghèo là một cuộc mạo hiểm đức tin, một hành trình thiêng liêng, trở về với Phúc âm để biết nhìn Chúa, nhìn chính mình và nhìn người đồng loại với con mắt của Chúa. Chính vì lý do đó, việc tông đồ phục vụ người nghèo, cũng như bất cứ việc tông đồ nào khác, là một sự kiện nội tâm, kết quả của lòng say mến Chúa Giê-su. Có thể là việc tông đồ đích thực, phải bắt nguồn từ đời sống nội tâm sâu xa trong tinh thần chiêm niệm với tất cả các đòi hỏi của đời sống đó. Chỉ trong những điều kiện đó mới có thể lựa chọn ưu tiên người nghèo theo tinh thần và đường hướng của Giáo hội.
3.2. Canh tân chính mình
Công việc phục vụ người nghèo sẽ giúp canh tân và xây đắp thực sự cuộc đời của chính nhà truyền giáo và đó là cách diễn tả của tình yêu. Việc phục vụ, giúp đỡ mà không phát xuất từ một con tim biết yêu thương có thể trở thành một hành động áp bức và sỉ nhục chính người nghèo. Chỉ có một tình yêu trung thực phát sinh từ tình yêu của Đức Giê-su, mới có khả năng làm cho người nghèo không còn cảm thấy bị sỉ nhục và yếu kém. Vì vậy, công việc phục vụ người nghèo đòi hỏi một số cố gắng thiêng liêng.
Đức Giê-su đã thương yêu hết mọi người, không chỉ người tốt lành, nhưng cả người tội lỗi xấu xa, vì Ngài là tình yêu (1Ga 4,8). Tình yêu đích thực đối với người nghèo đòi hỏi phải có khả năng thương yêu tất cả, không loại trừ ai, kể cả những người giàu. Nếu không biết thương yêu người giàu với tình yêu của Chúa, sẽ không thương yêu người nghèo cách trung thực. Thêm vào đó, khi biết thương yêu tất cả không loại trừ bất cứ ai và cảm nhận được là tất cả thuộc về Chúa vì Chúa muốn cứu vớt tất cả, thì sẽ nhìn và cảm nghiệm các vấn đề và hành động khác với người chỉ có cảm tình với một nhóm người nào đó.
Tình yêu dành cho người nghèo, không phải là lòng thương hại, nhưng lăn xả và đón nhận lấy điều kiện sống của người mình thương yêu làm của mình, đồng thời thông truyền cho người mình thương yêu chính điều kiện sống của mình. Phải có lòng nhân hậu đối với những yếu đuối, bất toàn; biết cảm thông, tha thứ và cứu vớt. Đó là tình yêu của Đấng Chăn Chiên nhân lành đi tìm con chiên lầm lạc để đưa về nhà bình an trong tinh thần hoà giải và hiệp thông (Lc 15,4-7).
Cần phải sống tinh thần khiêm tốn như Chúa Giê-su và Phúc âm của Ngài, để được thanh luyện và giải thoát khỏi các ý thức hệ, khỏi các tư lợi, tham vọng cá nhân, lòng ganh tị, thù oán, nếu không vô hình chung sẽ áp bức chính những người mình muốn giải thoát. Không ai có thể giải thoát người khác khi chính lòng mình chưa được giải thoát. Đàng khác, người nghèo cần Chúa Giê-su, cần tình thương của Ngài trước và trên hết mọi sự. Sự nghèo túng trầm trọng nhất chính là sự nghèo túng không biết Chúa Ki-tô. Đức Pi-ô XI trong thông điệp Về Các Hoạt Động của Giáo hội, nói rằng ơn Đức Tin được biết lòng nhân lành của Chúa là ơn cao quý nhất mà người Ki-tô hữu phải biết chia sẻ với những người anh em chưa biết Chúa (xc. Số 3).
Sau cùng là cố gắng thanh tẩy và giải thoát tâm trí và ý nghĩ khỏi tâm thức và cách nói hàm hồ, tuyệt đối, phóng đại và vơ đũa cả nắm, vì những cách nhìn và suy tưởng này gây ra hỗn loạn trong tâm trí, bạo động trong lòng, chia rẽ và xung khắc trong cộng đoàn và xã hội. Chẳng hạn cách nhìn và cách suy tưởng, coi vấn đề người nghèo chỉ dưới khía cạnh vất chất xã hội hay duy nhất trong nhãn giới áp bức và bất công. Cách suy nghĩ và cách nói này gây ra nhiều hiềm khích và biến người nghèo thành con người nhất diện, vì không tôn trọng thực tế phức tạp của vấn đề nghèo đói[18].
Cũng trong chiều hướng này, như đã nhắc ở trên, người ta thường trình bày vấn đề người nghèo như thể vấn đề mục vụ duy nhất của Giáo hội và việc phục vụ người nghèo như phương thế duy nhất để nên thánh. Để tránh thứ tâm thức trên, cần phải có một cuộc trở lại sâu xa trên bình diện trí thức để thấm nhuần tâm thức của Thiên Chúa. Cần phải nhìn vấn đề nghèo đói dưới tất cả các khía cạnh phức tạp của nó và nhìn ơn gọi làm người với đầy đủ chiều kích của một con người, có khía cạnh thể xác, vật chất, xã hội, v.V., và cũng có khía cạnh tâm linh nữa. Ngoài ra, cũng cần phải đặt công việc phục vụ người nghèo trong bối cảnh của sứ mệnh phổ quát của Giáo hội, vì Giáo hội được sai đi để đem ơn cứu chuộc đến cho hết mọi người. Như đã nói, Thiên Chúa không thiên vị ai (Cv 10,34), vấn đề là tại con người. Có người mở lòng đón nhận, có người lại khép kín tâm hồn từ khước Chúa và Tin mừng của Ngài. Tuy nhiên, cả với những người khép kín tâm hồn, Chúa vẫn tiếp tục tìm kiếm để cứu vớt. Nói cách khác, Thiên Chúa không lựa chọn một cá nhân hay một nhóm, một tầng lớp người nào, nhưng Ngài đã lựa chọn nhân loại và thương yêu tất cả. Kẻ thiếu thốn hơn thì được Chúa để ý hơn, không phải vì Chúa không thương yêu những người khác, nhưng vì những người này cần hơn những người khác.
3.3. Sống theo tinh thần khó nghèo của Tin mừng
Những người phục vụ người nghèo là những người đã đạt được mối phúc thật của người nghèo. Đó là những người biết sống sự khó nghèo như Phúc âm chứ không như ý thức hệ. Sống nghèo với ý thức hệ sẽ sinh ra ganh tị và thù ghét. Sống nghèo theo tinh thần Phúc âm thì được tự do, thảnh thơi và hạnh phúc, vì đã tìm được kho tàng thực sự là Chúa Giê-su. Do đó, trong lòng phát sinh ra lòng thương xót và nhân từ với những người lầm đường, lấy vật chất bảo đảm cho phần rỗi của mình.
Mối phúc thật của người nghèo theo tinh thần Phúc âm là sống với tinh thần bác ái (xc. 1Cr 13,3). Nếu chỉ biết bố thí mà không có lòng thương yêu, thì chưa phải là bố thí và nếu chính mình chưa tìm ra hạnh phúc, thì không thể đem hạnh phúc đến cho người khác được.
3.4. Sống tinh thần hiệp thông
Tinh thần hiệp thông với Giáo hội phải được coi là một trong những đòi hỏi căn bản của việc tông đồ. Lý do là vì công việc tông đồ không phải là một sáng kiến riêng tư của một cá nhân hay một nhóm người, nhưng là sứ mệnh mà Giáo hội đã lãnh nhận từ Chúa Giê-su. Như thế, các việc tông đồ là sự tham dự vào sứ mệnh của cả Giáo hội và do đó phải được thể hiện trong chiều hướng của Giáo hội. Chính vì vậy, việc tông đồ phục vụ người nghèo, như bất cứ công việc tông đồ nào khác, đòi hỏi nơi người tông đồ khả năng sống trong tình hiệp thông với Giáo hội. Sống hiệp thông với Giáo hội, một đàng phải hiểu biết và sống theo truyền thống sống động của Giáo hội. Đàng khác, phải biết tôn trọng và quí mến các phần tử của Giáo hội, theo ơn gọi và trách nhiệm của mỗi phần tử, vì tuy tất cả Giáo hội cùng hiệp nhất trong đức tin và sứ mệnh, nhưng khác biệt trong ơn gọi và trách nhiệm (xc LG số 12).
V. NHỮNG THÁCH ĐỐ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT
1. Những thách đố
- Nhân phẩm con người được nâng cao, nhưng thực tế lại bị xúc phạm và nhất là khi đạo đức suy giảm trong nhiều lãnh vực.
- Khát vọng xây dựng hoà bình luôn được cổ võ trong xã hội nói chung và trong các cộng đoàn nói riêng. Nhưng bản tính thích tranh chấp, ghen tương, bè phái, cục bộ vẫn sẵn sàng bùng nổ bất cứ lúc nào có dịp.
- Tinh thần bảo vệ và phát huy bản sắc dân tộc, tự hào Đất nước vẫn được duy trì. Nhưng cũng đang xuất hiện tinh thần lấy ngoại bang làm gốc, tự hào về nền văn minh sự chết.
- Nhiều khối tôn giáo đã nắm bắt tình hình cởi mở, để đi sâu vào quần chúng nghèo, phát triển những giá trị căn bản của đạo. Đang khi đó, không thiếu những khối tôn giáo khác lại lợi dụng sự cởi mở để phát triển đạo về mặt hình thức và rút về những nơi giàu có.
2. Những hành động cụ thể
Trong bức thư mục vụ của HĐGMVN nhân Năm Thánh Truyền Giáo năm 2003, đã đề nghị mọi thành phần Dân Chúa hãy tuỳ theo ơn gọi và chức năng của mình, tích cực tham gia sứ vụ loan báo Tin Mừng bằng những việc cụ thể sau :
2.1. Về phương diện thiêng liêng
Hãy nêu gương tôn trọng sự sống, tôn trọng phẩm giá con người, sống theo lương tâm ngay thẳng làm chứng về sự hiện diện của Nước Thiên Chúa, Nước “đầy tràn sự thật và sự sống, đầy tràn ân sủng và thánh thiện, đầy tràn tình thương, công lý và bình an” (Kinh Tiền tụng Lễ Chúa Ki-tô Vua).
2.2. Về phương diện đối thoại
Thăm viếng các thành viên tôn giáo bạn và nhất là thăm viếng các gia đình cũng như cá nhân ngoài công giáo là trình bày Phúc âm một cách cụ thể. Thăm viếng để chúc mừng khi vui, an ủi khi buồn, nâng đỡ khi gặp hoạn nạn là những trang Phúc âm sống động giúp anh chị em ngoài công giáo nhận rõ chân dung Chúa Giê-su Cứu Thế và hiểu biết đạo Chúa một cách chính xác hơn.
2.3. Về phương diện thực hành
- Việc bác ái cụ thể được thấy qua những cứu trợ thiên tai, giúp đỡ người nghèo về mọi mặt. Việc bác ái trong lâu dài phải nhắm đến phát triển toàn diện, giúp người nghèo có một đời sống xứng đáng với phẩm giá con người, vì “Phát triển là tên gọi mới của hoà bình” (xc. Thông điệp Progressio Populorum). Những hoạt động xã hội bác ái là những lời rao giảng dễ được đón nhận, vì “người đương thời sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là những thầy dạy, hoặc nếu họ có nghe các thầy dạy, bởi vì chính các thầy dạy cũng là những chứng nhân” (Evangelii Nuntiandi, số 41).
Thư mục vụ HĐGMVN Năm Sống Đạo 2006, đã đề ra những định hướng sống đạo cụ thể:
- Canh tân bản thân bằng việc ý thức và sống đúng phẩm giá con người của mình, tự huấn luyện để mỗi người có một lương tâm ngay chính.
- Dấn thân phục vụ là đòi hỏi tất yếu của của đức tin Ki-tô giáo. Đời sống đạo luôn luôn phải đặt trên nền tảng bác ái yêu thương.
- Góp phần xây dựng một xã hội công bằng, tôn trọng sự thật.
Thư mục vụ đề cập đến trách nhiệm của 3 thành phần chính yếu:
- Linh mục tu sĩ làm gương sáng và sống cầu nguyện, nỗ lực và kiên trì dấn thân vào công việc từ thiện xã hội.
- Giáo xứ là môi trường lành mạnh tổ chức những sinh hoạt giáo dục theo từng lứa tuổi. Quan tâm đặc biệt đến anh chị em di dân, những nạn nhân của các tệ nạn xã hội, những người bơ vơ bị bỏ rơi.
- Gia đình: Cầu nguyện chung với nhau, thánh hoá ngày Chúa nhật, sống hoà thuận ấm êm, vợ chồng trung tín thuỷ chung.
3. Phương hướng mục vụ
3.1. Tố cáo bất công
Trong các suy tư mục vụ và truyền giáo, người ta nói nhiều đến công tác tố cáo bất công: phải tố cáo bất công luôn luôn và bất cứ từ đâu tới. Tuy nhiên, công tác mục vụ như hiện nay người ta đang thi hành, đã gây nên không ít thắc mắc.
Chắc chắn cần phải có can đảm nói lên sự thật (tố cáo bất công), tuy dù có gây ra nguy hiểm cho chính bản thân, vì đây là một đòi hỏi của tình yêu. Một tình yêu mà không tôn trọng sự thật thì không còn phải là tình yêu trung thực. Tuy nhiên, trong việc nói sự thực (tố cáo bất công), phải tôn trọng triệt để 3 điều kiện thiêng liêng sau đây:
- Cần phải tôn trọng sự thật. Khi tố cáo bất công, cần phải tìm hiểu cặn kẽ những người có trách nhiệm thực sự để khỏi phạm tội bất công khi tố cáo những người vô tội. Vì vậy, cần phải tránh những lời tố cáo hàm hồ, phóng đại và chưa được kiểm chứng, hoặc bị thúc đẩy bởi những công thức theo ý thức hệ, hay bởi những tư lợi ích kỷ và tham vọng cá nhân.
- Nói lên sự thật với lòng bác ái và phải phát xuất từ một con tim biết thương yêu thực sự, và thương yêu tất cả, ngay cả người mình phải tố cáo, để cứu vớt và xây đắp. Vì vậy, không bao giờ được viện lẽ tố cáo bất công để làm một việc bất chính. Tình thương yêu cũng có khả năng hy sinh và từ bỏ quyền lợi của mình. Một người không biết hy sinh quyền lợi của chính mình vì tình yêu sẽ không có khả năng bảo vệ quyền lợi của mình và của người yếu kém mà không gây thêm bạo động và nhiều bất công mới.
- Có sự khôn ngoan của tình yêu, biết khi nào phải nói sự thực để soi sáng và sửa chữa, khi nào phải im lặng chịu đựng, với tấm lòng quảng đại, những thiếu sót và cả lòng độc ác của người khác để giải thoát họ khỏi sức mạnh của sự dữ. Sự khôn ngoan của tình yêu biết tìm lời nói và cách thức thích hợp cũng như biết chờ giây phút thuận tiện. Trọng tâm của lòng thương yêu không phải là nói lên điều lỗi lầm của người khác, nhưng là giúp họ nhìn ra sự thật và thay đổi cuộc sống. Điều làm ta vui thích không phải là cái chết của người tội lỗi, nhưng là người tội lỗi thay đổi cuộc đời để được sống (xc. Ed 33,11).
Thiếu những yếu tố thiêng liêng trên, việc tố cáo bất công sẽ trở thành hành động sỉ nhục và không xây dựng người khác. Vì vậy, trong việc thực hành tố cáo bất công, phải xét mình cẩn thận để xem tinh thần nào và tâm tình nào là căn nguyên thúc đẩy. Ngoài ra, vấn đề nghèo đói trên thế giới là một vấn đề trầm trọng đòi phải có sự cộng tác của tất cả mới có thể giải quyết được. Các nhà chính trị trong thế giới hôm nay đã hiểu được điều này. Cả những thù địch cũng tập kính trọng nhau, đối thoại với nhau và hoà giải với nhau để giải quyết các xung khắc về chính trị và quyền lợi, chứ không đứng chửi rủa trách móc nhau. Việc mục vụ tố cáo luôn luôn không những nguy hiểm là không theo đúng tinh thần Phúc âm, mà còn không theo kịp đà tiến của thế giới đương thời.
Thách đố thực sự đối với người Ki-tô hữu, trong vấn đề nghèo đói, không phải là nói lên những sai lầm (nhiều khi rất cần thiết), nhưng là sự khôn ngoan, phát nguồn từ Phúc âm, có khả năng tìm ra được những đề nghị cụ thể, thực tế và có sức huy động các khả năng cấu tạo nên một nền văn hoá biết tôn trọng mọi người và giúp họ phát triển toàn diện trong một xã hội công bình hơn, nhiều tình thương yêu đại đồng hơn; đồng thời cũng rộng mở để vươn lên cõi linh thiêng của Thiên Chúa. Trong thực tế, lịch sử đã cho chúng ta thấy là rất nhiều khi người ta chỉ trích, dẹp bỏ các cơ cấu bất công, rồi thay vào đó bằng những cơ cấu còn bất công và độc ác hơn.
Yếu tố căn bản của tất cả vấn đề là cải hoá tâm hồn con người. Đây chính là thách đố thứ hai đối với các Ki-tô hữu và đây cũng chính là lãnh vực hoạt động đặc thù và độc đáo của Giáo hội mà không ai có thể thay thế. Các hoạt động của Giáo hội nằm trong lãnh vực thiêng liêng và nhắm vào lương tâm con người để biến đổi tinh thần và tâm hồn để họ vươn lên Thiên Chúa và, do đó, có thể tiến tới người anh em trong công bằng và tình thông hiệp.
3.2. Dấn thân phục vụ
Việc dấn thân hoà mình dựa trên căn bản và mẫu mực của mầu nhiệm Nhập Thể. Tình yêu chính kho tàng sức sống để làm cho người mình thương yêu được thêm thăng tiến và giàu có. Theo tinh thần mầu nhiệm Nhập Thể, cần phải chú tâm đến hai yếu tố thiết yếu của việc dấn thân hoà mình:
- Cốt tuỷ của mầu nhiệm Nhập Thể là tình yêu. Vì thương yêu, Chúa Giê-su đã mặc lấy bản tính loài người và thông truyền đời sống thần linh của Ngài để cứu vớt và biến đổi loài người. Điều đó có nghĩa là khi hoà mình vào lịch sử nhân loại, Chúa Giê-su không chỉ chấp nhận địa vị và điều kiện sống của con người, nhưng Ngài cũng thông truyền đời sống thần linh của Ngài để gột rửa và biến hoá con người. Do đó, cần hoà mình vào môi trường của người nghèo với tình yêu sâu đậm để thông phần vào cuộc sống của họ; đồng thời thanh tẩy, xây đắp và biến đổi tất cả môi trường (con người, tâm thức, tình cảm, giá trị, tiêu chuẩn và nếp sống, cơ cấu xã hội) theo tinh thần Phúc âm để làm cho đời sống của họ thêm sung mãn và rộng mở để vươn lên Thiên Chúa.
- Dấn thân phục vụ người nghèo. Tuy nhiên, dưới ánh sáng mầu nhiệm Nhập Thể, tinh thần dấn thân hoà mình phải áp dụng cho mọi hình thức tông đồ, vì đó là đòi hỏi của tình yêu cứu độ. Các nhà truyền giáo luôn là những vị dấn thân hoà mình hết mình. Các ngài lăn xả vào môi trường sống của người dân các ngài có sứ mệnh phục vụ và với tình yêu sâu đậm, chia sẻ cuộc sống của họ và đem Phúc âm biến đổi tất cả. Chính vì vậy, việc dấn thân hoà mình và các hình thức thực hiện cụ thể có thể khác biệt tuỳ theo công việc tông đồ và ơn gọi của mỗi người.

4. Ưu tiên đến với những người nghèo khó
Chúa Giê-su đã áp dụng lời ngôn sứ Isaia vào trong bài giảng đầu tiên tại Nadarét: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi. Sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo khó..." (Lc 4,18).
Những người nghèo khó về bất cứ phương diện nào đều là những địa chỉ Đức Giê-su sai ta đến một cách ưu tiên. Ngài đợi ta ở những địa chỉ đó. Ta sẽ cộng tác với Ngài để giúp họ về đời sống vật chất tuỳ khả năng của ta, nhưng nhất là giúp họ đặc biệt về mặt đạo đức và tinh thần. Nhờ vậy, Chúa sẽ đón họ và ta vào Nước của Người (x. Mt 25,31-46).
Hai điều kiện trên đây, tức là khiêm nhường chiêm niệm cuộc đời Chúa cứu thế và khiêm nhường lo cho các loại người nghèo khổ, đó là những nét tuyệt vời đã làm nên chân dung Mẹ Têrêsa Calcutta. Mẹ là mẫu gương thích hợp nhất cho mọi nhà truyền giáo tại Á Châu nói chung và tại Việt Nam nói riêng.
Thời điểm này đang đặt ra cho Hội Thánh Việt Nam nhiều thách đố. Những thách đố này đòi chúng ta tinh thần tỉnh thức và cầu nguyện. Đạo Công giáo chúng ta sẽ được trân trọng hay không, nhiều hay ít tại Việt Nam hôm nay? Thiết tưởng điều đó sẽ tuỳ thuộc khá nhiều vào việc chúng ta dấn thân cho người nghèo, thái độ của Hội thánh ta đối với đất nước Việt Nam này, nhất là phẩm chất Phúc âm của những nhân chứng Đức Ki-tô sống giữa lòng dân tộc.
5. Nỗ lực phát triển nhân bản
FABC cho thấy việc phát triển nhân bản là một phần cấu thành trong tác vụ rao truyền Phúc âm. Cho dầu Tin mừng không đưa ra những phương thế cho các vấn đề xã hội, chính trị, kinh tế và văn hoá. Thế nhưng, “Nhu cầu thấy rõ là cần phải phân tích cho đúng với cách thức phê bình và đường lối kỹ thuật thích đáng, những vấn đề chúng ta đang đối diện với. Không thể hành động theo lối nhảy từ kinh nghiệm đức tin để đi tới chỗ đưa ra những quyết định cụ thể cho hoạt động xã hội mà trước đó không lo tìm hiểu cho chính xác về mặt kỹ thuật, cũng như nhận thức rõ ràng về các ý thức hệ đang ảnh hưởng sâu rộng đến môi trường sống của chúng ta.”
Để giúp những người dấn thân trong các chương trình phát triển nhân bản đặt đúng kế hoạch cũng như sử dụng hữu hiệu các phương thức hành động, BISA VII đã đề xuất những đường nét chính yếu cho phương pháp gọi là “chu kỳ mục vụ” gồm bốn giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất: “Trình bày có thể được coi như là cuộc chẩn bệnh của bác sĩ; còn dìm sâu thì giống như là cuộc thăm viếng của một người bạn chí tình đến để trao đổi tâm sự cùng kinh nghiệm thâm sâu về đời sống. Trình bày-dìm sâu... quả là dõi theo con đường (nguyên tắc) cơ bản của Nhập Thể...”
Giai đoạn thứ hai: Phân tích tình trạng xã hội. Những đối tượng cần tìm hiểu bao gồm các hệ thống xã hội, kinh tế, chính trị, văn hoá và tôn giáo trong môi trường xã hội, cũng như những dấu chỉ thời đại, những biến cố lịch sử cùng những nhu cầu và khát vọng của dân chúng. Quả thế, hội nghị quốc tế về truyền giáo nêu rõ ràng “thái độ ngây ngô của số rất đông Ki-tô hữu trước những nguyên nhân – phát xuất từ cơ cấu – của nghèo đói và bất công, thường đưa họ đến chỗ chọn lấy những biện pháp không đủ sức mang lại hiệu quả mong muốn cho hoạt động nhằm thăng tiến công bằng và nhân quyền mà họ theo đuổi”.
Giai đoạn thứ ba : “Đưa cuộc phân tích xã hội hội nhập vào thực tại cuộc sống tôn giáo và văn hoá, không phải chỉ để nhận ra những khía cạnh tiêu cực, nô lệ hoá không thôi, mà còn để phát hiện những chiều kích hay đẹp, có tính cách ngôn sứ, đầy sức năng gợi hứng cho một nền linh đạo chính thực”. Giai đoạn này đòi hỏi phải có chiêm niệm để nhận cho ra Thiên Chúa hiện diện sống động giữa lòng xã hội, và lòng thương đặc đãi Người dành cho những người nghèo hèn. Cần có những cuộc đối thoại để các giá trị của Tin Mừng - như là “lối sống đơn giản, thái độ cởi mở chân thực và quảng đại chia sẻ, ý thức về đời sống cộng đồng và lòng trung tín trong đời sống gia đình” - sẽ được nhận ra và sẽ được quý trọng cao độ.
Giai đoạn thứ bốn: Thiết định chương trình mục vụ, cố làm sao để  đưa ba giai đoạn nói trên đạt được tới mức hoàn thành, bằng cách đề ra những kế hoạch cụ thể và thực tiễn, những phương sách và đường lối hành động thích đáng nhằm phục vụ cho công tác phát triển nhân bản toàn diện. Một khi đã được vun trồng và bén rễ vào trong môi trường hoạt động, các kế hoạch, phương sách và đường lối trên đây còn phải được thường xuyên lượng định và  đánh giá theo tình trạng đổi mới của ba giai đoạn đầu trong chu kỳ mục vụ.
6. Phương thế và kế hoạch hành động
Những hành động cho công tác phát triển nhân bản đều phải nhằm tới việc phát triển và giải phóng trọn vẹn toàn bộ mỗi con người và mọi người, cũng như toàn thể cộng đồng nhân loại.
Ngay trong phạm vi giới hạn ấy, có thể kể ra một số những khuyến nghị chủ chốt FABC đã đề xuất cho công tác phát triển nhân bản.
- Trước tiên, FABC nhấn mạnh rằng Giáo Hội của (chứ không chỉ là tại) Á Châu  phải là “Giáo Hội của người nghèo,” có một lập trường đặc đãi đối với người nghèo, một lập trường hoàn toàn ý thức và thật sự thiết thực.
- Thứ hai, hoạt động nhằm tới việc phát triển xã hội, chính trị và kinh tế, phải được tiến hành song song với công tác đối thoại liên tôn và nỗ lực hội nhập văn hoá. Không có hội nhập văn hoá, thì hoạt động kia sẽ không gắn liền được với gốc rễ thâm sâu nhất của dân tộc mà hoạt động ấy muốn phục vụ và hợp tác; không có đối thoại liên tôn, thì hoạt động phát triển sẽ bị tước đoạt mất đi sức năng biến đổi tiềm tàng ở trong các biểu tượng và nghi thức tôn giáo.
- Thứ ba, liên quan với công tác đối thoại liên tôn, và để hoạt động phát triển nhân bản được thực sự hữu hiệu, FABC đề nghị nên tiến hành hoạt động này với sự hợp tác của tín đồ các tôn giáo khác. Đó là việc làm thực tế đòi hỏi, không những là vì con số người tín hữu tại Á Châu  quá nhỏ, và vì phương tiện họ có để thực hiện công tác cũng hết sức hạn hẹp, mà còn là vì nếu không thay đổi lối nhận thức về tôn giáo và những cơ cấu tổ chức tôn giáo, thì không sao trừ tiệt cho tận gốc rễ được một số tệ đoan xã hội, như: tình trạng kỳ thị dựa trên hệ thống đẳng cấp xã hội, và không biết bao nhiêu là hình thức bất công khác do các chủ hướng cực đoan tôn giáo gây ra.
- Thứ tư, bởi tình trạng chia rẽ giữa các Ki-tô hữu là một gương xấu đang hiện rõ rành rành trước mắt người Á Châu, và là một chướng ngại trầm trọng đối với công tác Phúc âm hoá, thế nên FABC đã kêu mời: “Trong mức độ tình trạng hiệp nhất đã có nhưng còn chưa toàn vẹn cho phép, tất cả các Giáo hội Ki-tô nên cùng nhau đưa ra một nỗ lực chung để tiến hành công tác Phúc âm hoá”. Nỗ lực chung ấy sẽ bao gồm cả những kế hoạch hoạt động cho việc phát triển nhân bản, một thành phần của công việc Phúc âm hoá.
- Thứ năm, Giáo Hội không thể hoàn thành nhiệm vụ cổ vũ việc cải tiến xã hội mà không nâng cao cho đúng với tầm quan trọng của nó, vai trò giáo dân, cách riêng là của nữ giới và của giới trẻ.
- Thứ sáu, trong chiều hướng nâng cao vai trò của giáo dân, FABC cũng khuyên nên đẩy mạnh hơn việc thành lập các cộng đoàn Ki-tô hữu căn bản: “Sự kiện cơ bản là giữa bối cảnh Á Châu ngày nay, chúng ta đang bước đi trong tiến trình phát hiện trở lại việc các Ki-tô hữu, xét theo tư thế là cá nhân đơn lẻ, có thể sống còn, tăng trưởng và phát triển tốt đẹp, tốt đẹp nhất, theo diện con người kitô, ở trong các cộng đoàn Ki-tô sống tự túc về mặt bồi dưỡng, quản trị, thi hành thừa tác vụ và quảng bá.”
- Thứ bảy, FABC khuyến khích các tổ chức của Giáo hội như các trường trung và đại học, các cơ quan y tế cũng như các dịch vụ xã hội khác nên dồn các hoạt động của mình trước tiên vào việc phục người nghèo.
- Thứ tám, việc dùng các phương tiện truyền thông đại chúng vào trong công tác phúc âm hoá và phát triển nhân bản đã được mạnh mẽ cổ vũ.
- Thứ chín, đối với các dạng mẫu kinh tế cổ điển, sau khi phê bình cả chủ hướng tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội, FABC đã chia sẻ: “Theo như chúng tôi thấy, tương lai nằm trọn ở trong những dạng thể mới, dạng thể tiên phong, qua đó các công nhân dự phần vào trong tổ chức công nghiệp, kể từ việc canh cải trào lưu hợp tác xã cho đến việc công nhân hợp tác vào trong các tổ chức kinh doanh tư hoặc bán công. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc nắn đúc nên một kỹ thuật thích đáng khả dĩ tránh cho khỏi tình trạng tập trung quyền hành vào trong tay một số người, cũng như với lập trường ủng hộ việc dùng kỹ thuật để phục vụ lao động chứ không phải là ngược lại. Tiến hành theo lề lối ấy có nghĩa là phát triển kỹ thuật tầm cỡ nhỏ để các công nhân có thể sở hữu và quản trị, ít nhất là như một hợp tác xã.”
- Thứ mười, FABC ý thức rõ ràng hoạt động xã hội của Giáo hội thường chạm trán với cảnh đối lập, đấu tranh. Dẫu vậy, Liên Hiệp cũng vẫn lưu tâm nêu bật hai điểm: Trước tiên, “tranh đấu không nhất thiết có nghĩa là bạo động (cần được tầm cứu qua một cách thức nhận định khác), mà cũng chẳng nhất thiết đối nghịch với đức ái ki tô. Thứ đến, tranh đấu thường là cách thế cần thiết để đạt đến chỗ đối thoại thực sự với những người cầm quyền. Người nghèo sẽ không làm được điều đó bao lâu họ chưa tỏ cho thấy họ không còn là nô lệ, không còn sống trong lo âu sợ sệt.”
Đó là những gì cụ thể FABC đã đưa ra để đề nghị một hệ thống kinh tế biệt loại nhằm phục vụ việc phát triển nhân bản, thích hợp với hoàn cảnh Á Châu, và qua đó, xem ra Liên Hiệp HĐGMAC cố tìm cách mở một con đường trung dung giữa kiểu kinh tế thả lỏng và lối phát triển kinh tế tập quyền - quản trị.
7. Phát triển toàn vẹn và toàn diện
FABC coi việc phát triển nhân bản là điều phải nhắm tới trước tiên và dốc lực cổ vũ cho tiến trình này. “ÔChúngôi nhất quyết dấn thân chăm lo cho việc phát triển toàn vẹn của các dân tộc chúng ta. Chúng tôi tin rằng nhân tính con người là món quà, là công trình của Thiên Chúa, và nỗ lực thăng tiến nhân tính ấy là trách vụ, là bổn phận Thiên Chúa trao phó cho tất cả chúng”. Kỳ họp khoáng đại lần VI đưa ra cách thức phát triển toàn diện ấy theo cách hiểu về một sự sống toàn tiến: “Chúng tôi hiểu theo nhãn quan của sự sống toàn tiến, sự sống đã được hoàn thành và được giao phó cho mỗi người cũng như cho mỗi cộng đồng loài người, bất phân giới tính, tín ngưỡng hay văn hoá, đẳng cấp xã hội hay màu da. Đó là thành quả của việc phát triển toàn diện, việc phát triển đích thực của toàn bộ con người và của mỗi người” .
FABC đưa ra những yếu tố chủ chốt trong nhiệm vụ truyền rao Tin Mừng tại Á Châu ngày nay:
Hội nhập văn hoá là yếu tố giúp cho Giáo Hội địa phương hiện diện thực sự ở giữa cuộc sống dân chúng.
Đối thoại với các tôn giáo lớn tại Á Châu  nhằm tới việc giúp họ làm quen với Phúc âm, mong rằng Lời hằng tiềm ẩn ở trong họ gặp được cơ may trổ sinh hoa trái.
Phục vụ người nghèo để cùng nắm tay với họ trong cuộc đấu tranh cho một thế giới có được tình người thắm đượm hơn.”
Để đạt được đến mức toàn vẹn và toàn diện, thì cuộc phát triển nhân bản phải tiến xa ra ngoài ranh giới gia đình nhân loại và trải rộng cho tới chân trời vũ trụ. BISA VII đã nêu bật lý chứng mà FABC hiểu về tác vụ phát triển nhân bản: “Cần phải cấp bách gầy dựng một thể dạng linh đạo mới có sức ngập tràn công cuộc phúc âm hoá và ôm trọn kế hoạch của Thiên Chúa đối với toàn bộ công trình tạo dựng. Đơn thuần cá nhân không thôi thì chưa đủ, việc cứu độ phải nhằm tới toàn bộ con người, hết thảy mọi người và cả vũ trụ nữa. Không được bo bo hướng nội, linh đạo ấy phải đưa Giáo Hội tiến đến chỗ mở rộng lòng ra phục vụ cho toàn thể nhân loại”.
VI. KẾT
Đức Phaolô VI trong Thông Điệp Ecclesiam Suam đã tuyên bố rằng, vấn đề quan hệ giữa Giáo hội và thế giới hôm nay chính là một trong những mối bận tâm lớn  nhất  của thời đại.  Ngài viết : “Vấn đề ấy đã xuất hiện và mang tính khẩn trương tới mức tạo ra một gánh nặng trên tâm hồn chúng ta, cũng như trở thành một yếu tố kích thích, một lời mời gọi chúng ta”. Giáo Hội chỉ có thể hoàn thành sứ mạng của mình theo một cách giống như cách Thiên Chúa đã làm trong Đức Giêsu Kitô: Ngài đã trở thành con người, chia sẻ cuộc sống con người và nói bằng ngôn ngữ loài người để truyền đạt sứ điệp cứu độ.
Tin mừng là men giải phóng và thăng tiến con người. Thế nên, Giáo hội không giới hạn sứ vụ của mình vào sứ vụ tôn giáo, mà không nghĩ tới những vấn đề trần gian thuộc con người. Rao giảng Tin mừng và thăng tiến phẩm giá con người là hai chiều kích song song với nhau. Giáo hội trung thành với giáo huấn và gương lành của Đấng sáng lập, Con Thiên Chúa, Đấng đã dạy “loan báo Tin mừng cho người nghèo khó” như là dấu chỉ của sứ mệnh mình.
Làm sao có thể loan báo Tin Mừng cho người nghèo, nếu không chia sẻ những gánh nặng của ho ? Làm sao có thể cho người ta được sáng nếu không gặp gỡ những người mù? Ta sẽ trả tự do cho ai nếu không liên đới với những người bị áp bức ?…


Jos. Magnificat Lâm Xuyên k12



[1] Xc. Đức Gioan Phaolô II : Sứ Mệnh Đấng Cứu Thế (tháng 12 năm 1990); Sứ Điệp Mùa Chay, năm 1991; bài diễn văn trước Đại Hội FAO nhóm họp tại Rô ma tháng 12 năm 1992 và sau cùng, Sứ Điệp Ngày quốc tế cầu nguyện cho Hòa Bình, năm 1993.
[2] Sứ điệp Ngày thế giới hoà bình. 1986, số 5; xc. Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis, số 39.
[3] xc. Đức Phaolô VI, Thông điệp Populorum Progressio, số 76.
[4] Xc. Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis, (1987).
[5] x. Giáo Hội tại Á Châu, số 39.
[6] Xc. Thông điệp, Populorum Progessio, số 86.
[7] Xc. Thông điệp Centesimus Annus, số 11.
[8] Xc. Thông điệp Libertatis Nuntius, phần giới thiệu.
[9] Xc. Nguồn, Puebla, số, 476
[10] Nguồn, FABC.
[11] Bishops’ Institute for Sosial Action (BISA).
[12] Bước theo Đức Ki-tô trên đường sứ mệnh – Truyền giáo học cơ bản, tr. 76-77.
[13] xc. Những hình ảnh trong Sách Xuất hành; những hạn từ : Số sót, Anwim; Các mẫu gương như Đức Maria, mẹ Têrêsa, những nhà truyền giáo xưa và nay …).
[14] Xc. Bài viết của Đức ông Giuse Đinh Đức Đạo, trong tạp chí Omnis Terra, mang tựa đề The present day situations of the Mission 'ad gentes': at the service of the poor, Omnis Terra 27 (June 1993) p. 287-293.
[15] Bài góp ý của Thượng Hội Đồng Giám Mục, 1974, trong I Semi del Vangelo, do Domenico Colombo góp nhặt, EMI, Bologna, 1975, tr. 168.
[16] Xc.  Sắc lệnh Ad Gentes, số 2.
[17] Chẳng hạn như: Gustavo Gutiérrez, Leonardo Boff, Clodovis Boff, v.v.
[18] Xc. Herbert Marcuse, One-Dimensional Man, Beacon Press, Boston, 1964.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét