LỜI DẪN
"Con người có quan hệ với chính
mình và có khả năng suy tư về chính mình"[1].
Bởi vây, mà ngay từ thời thượng cổ, con người đã biết đi tìm sự khôn ngoan qua
việc con người biết suy tư về chính mình. Đặt mình trước những công trình kỳ vĩ
của Tạo Hóa, từ lâu loài người đã đặt cho mình câu hỏi "con người là gì?".
Theo thời gian, lý trí con người cũng đã dần được mở ra với Tạo Hóa, với vũ trụ
và với chính mình. Những người khôn ngoan của Hylạp cổ đại đã đưa ra rất nhiều
quan niệm, nhiều cách nhìn khác nhau nhằm để trả lời cho câu hỏi "con
người là gì?". Tuy nhiên tất cả đều không đưa đến cho con người một sự
thỏa mãn khi muốn hiểu biết được về chính mình. Vấn nạn đó vẫn luôn đeo đuổi
trong những khía cạnh khác nhau của đời sống và trong những trăn trở, suy tư
của con người.
Đến thời Trung cổ, với trí thông
minh phú bẩm và ơn soi sáng của Thiên Chúa, thánh Augustinô (354-430) và thánh
Tôma Đacanh (1225-1274) đã đưa ra cho nhân loại một cái nhìn độc đáo và mới mẻ
về con người qua tư tưởng triết học của mình. Nhãn quan đó đã để lại tiếng vang
và ảnh hưởng lớn cho kho tàng triết học nhân loại nói chung và triết học Trung
cổ, hay triết học Kitô giáo nói riêng mãi tới ngày nay. Hai thánh đã suy tư và
nắm bắt những tư tưởng triết học của Platon và của Aristote trong kinh nghiệm
của đức tin, của ân sủng và Thánh Kinh để tạo thành triết lý cho riêng mình. Vì
thế mà thánh Augustinô được xem là người "Kitô hóa" triết học của
Platon. Thánh nhân "đã tận dụng hết những gì một hạt giống văn hóa nơi
truyền thống Platon có thể có được, để trở thành con đường đến cùng Thiên
Chúa"[2]
và biến truyền thống đó thành cách tư duy Kitô giáo. Còn thánh Tôma Đacanh thì
được xem là "người "rửa tội" cho học thuyết của Aristote, để
biến học thuyết đó thành công cụ giải thích thế giới và đức tin đúng tinh thần
Kitô giáo."[3] Nhãn
quan của hai thánh về con người được nhân loại nhìn nhận là bởi trong đó có lập
luận một logic, hợp lý, khoa học và một trí tuệ xuất chúng, siêu phàm. Cả hai
người cũng đều được Giáo Hội tôn kính đặc biệt và nâng lên hàng Tiến Sỹ Hội
Thánh. Bởi Giáo Hội thấy được sự phù hợp trong triết lý của hai thánh đối với
các tín điều Giáo Hội dạy và có cơ sở vững chắc trong việc giải quyết những vấn
nạn mà nhân loại đòi hỏi: vấn nạn về linh hồn, vấn nạn về đức tin và lý trí,
vấn nạn về sự dữ, sự tự do hay về tội lỗi..v.v..
Trong những ảnh hưởng và đóng góp to
lớn đó, nhân loại vẫn muốn dừng lại để ngắm nhìn nhãn quan mới mẻ, độc đáo và
tiên tiến của thánh Augustinô và thánh Tôma Đacanh về con người. Nhãn quan đó được
mở ra trong sự hài hòa giữa đức tin của tôn giáo và lý trí của khoa học.
I.
QUAN NIỆM CỦA CÁC TRIẾT GIA HYLẠP CỔ ĐẠI VỀ CON NGƯỜI
Khởi đầu chặng đường đi tìm khôn
ngoan, các nhà thông thái của Hylạp đã tìm đến với vũ trụ và đặt lý trí của
mình vào đó để suy tư. Họ rất ít đề cập đến vấn đề con người trong triết học,
và có đề cập tới đi nữa thì cũng rất mơ hồ. Cùng với thời gian, các nhà triết
học sau này đã nhận ra được con người và những vấn đề của đời sống con người là
cả một kho tàng để lý trí tư duy và khám phá. Chính vì thế mà các nhà triết học
của Hylạp Cổ đại đã bắt đầu quay về với con người, về với cuộc sống sinh động
đang diễn ra, cuộc sống mà chính họ cũng đang tham gia và họ bắt đầu lấy con
người làm trung tâm của suy tư triết học.
Khai mào cho bước chuyển hướng tư
duy của lịch sử triết học nói riêng và của nhân loại nói chung, chúng ta phải
nói tới các Nhà Ngụy Biện. Họ là những người đầu tiên đặt vấn đề đưa con người
vào trong những suy tư triết học và lấy con người làm trung tâm những tư tưởng
triết học của mình. Nếu các nhà Ngụy Biện là những người đặt móng trong việc
chuyển hướng đối tượng của triết học, thì Socrates (470-399 tcn) là người thi
công công trình này. Với tư tưởng trục là "con người hãy tự nhận thức lấy mình",
Socrates được xem là hiện thân của bước rẽ trong hành trình của triết học, đã
đưa triết học từ vũ trụ tự nhiên xa vời để trở về với tâm tư trăn trở của đời
sống con người, nơi con người chân đạp đất, đầu đội trời để sống trong kiếp
người của nó, tại đó có sự hiện hữu của ông. Đối với Socrates thì con người là
trung tâm của tất cả những điều đáng suy nghĩ, đáng bận tâm và cân nhắc. Tiếp
nối tư tưởng của thầy mình, Platon (427-347 tcn) kiên định lập trường: Con người
là thước đo của vạn vật. Theo ông, con người là một sự sáng tạo của vũ trụ và
con người được cấu tạo bởi hai phần riêng biệt: Thân xác và Linh hồn. Trong đó,
thân xác là mồ chôn của linh hồn, thân xác và linh hồn tách biệt nhau, không
liên quan nhau. Linh hồn có trước thân xác và khi xuống nhập thể với thân xác
là nó chỉ sống tạm. Linh hồn con người bất tử, còn thân xác thì khả tử, khi
thân xác chết đi thì linh hồn sẽ trở về nguồn của mình. Linh hồn thuộc về hồn vũ
trụ, hạnh phúc thật của con người không ở đời này, mà là ở thế giới khả niệm,
thế giới các ý tưởng và sẽ được tận hưởng khi linh hồn được trở về nguồn. Ông
cũng cho rằng tất cả những gì con người nhận thức được ở đời này là do hồi
tưởng những gì ở tiền kiếp mà thôi. Đến Aristote (384-322 tcn), ông cũng nhấn mạnh đến
vấn đề bản thể của con người. Ông cho rằng con người là một sự sáng tạo theo
cách giống với những chủ thể khác trong vũ trụ. Tuy nhiên khác với Platon,
Aristote cho rằng: Con người là một thể thống nhất giữa linh hồn và thân xác;
giữa mô thể và chất thể, không thể tách rời nhau. Giữa linh hồn và thân xác có
quan hệ mật thiết với nhau. Linh hồn con người chỉ có một kiếp sống cùng với
thân xác, không có tiền kiếp nào cả. Nó gắn liền với sự tồn tại của thân xác.
Linh hồn chết cùng với thân xác, và linh hồn không bất tử. Ông cũng cho rằng:
con người là một sinh vật chứ không phải là thần thánh, nên ý nghĩa suộc sống
và hạnh phúc là ngay ở trên đời này.
Như vậy, dù ở những mức độ nhìn nhận
và ở những môi trường khác nhau trong những quan niệm của các nhà triết học
Hylạp Cổ đại, nhưng ta thấy con người được nhìn nhận như là một sự sáng tạo cao
nhất, bằng cách nào đó con người đóng vai trò tuyệt diệu nhất trong vũ trụ. Qua
đó ta có thể thấy: con người mặc dù thuộc về thế giới tự nhiên, là một sự sáng
tạo có vật chất, nhưng lại có tính siêu phàm và có khả năng đạt tới siêu phàm
bởi vì bản chất tự nhiên của con ngươi là siêu phàm. Trong con người ta cũng
thấy có những cái vượt ra khỏi vật chất để tiếp cận với siêu phàm. Tuy vậy, cái
"Siêu phàm" mà các nhà triết học Cổ đại đã đề cập vẫn còn rất mơ hồ
đối với họ cũng như đối với các đọc giả. Họ chưa thống nhất được cũng như chưa
nắm bắt được gì về cái mà họ cho rằng con người đang cố gắng vượt qua cái vật
chất để hướng tới.
Đến đây, con người và triết học đặt
ra cho mình nhu cầu: là cần khai sáng về "vấn đề siêu phàm". Con
người muốn biết về nó vì đó là đích sống của con người. Tuy nhiên trong nhu cầu
này, con người cũng không muốn tách biệt và đi ra khỏi con người tự nhiên để
hiểu biết về cái siêu nhiên. Đó là một thách đố đối với các nhà triết học,
nhưng cũng là một lời mời gọi tìm kiếm sự khôn ngoan và các chân lý đối với
những trí óc thông minh.
Đến thời Trung cổ, vấn đề "tính
siêu phàm" nơi hữu thể con người mới được khai sáng, nhân loại mới có thể
tìm được câu trả lời hợp lý cho mình nơi tư tưởng và nhãn quan độc đáo, mới mẻ
của thánh Augustinô và thánh Tôma Đacanh về con người vật chất tự nhiên cũng
như về tính siêu việt hay "thần tính" của con người.
II. CON NGƯỜI DƯỚI NHÃN QUAN CỦA THÁNH AUGUSTINÔ
Tư
tưởng triết học của thánh Augustinô chịu ảnh hưởng mạnh mẻ của triết học Platon
và am hợp phần lớn với học thuyết Tân Platon. Tuy nhiên, nơi thánh Augustinô ta
bắt gặp một sự thống nhất giữa cuộc đời và tư tưởng. Những tư tưởng của thánh
nhân cũng chính là những trăn trở trên bước đường tìm kiếm chân lý cứu độ của
ngài. Như thế, thánh Augustinô sử dụng triết học Platon không như là những bài
học lý thuyết từ sách vở, nhưng là vì chúng am hợp với kinh nghiệm của ngài
trên con đường tìm về với Thiên Chúa. Cũng vì thế mà dưới nhãn quan của thánh Augustinô con
người được nhìn trong sự đan xen hài hòa giữa tư tưởng Platon và sự "soi
sáng" của ân sủng Thiên Chúa.
1.
Trong việc nhìn nhận tổng thể con người, thánh Augustinô thống nhất với
tư tưởng của Platon cho rằng: "Con người là sự kết hợp giữa thân xác và
linh hồn"[4].
Trong đó, Linh hồn con người là thiêng liêng và có tính bất diệt, còn thân xác
là vật chất và khả tử. Cũng vì thế mà theo thánh nhân, "con người có tính
hai mặt vì con người thuộc về hai thế giới: thế giới tinh thần siêu việt và thế
giới vật chất."[5]
Do đó, trong con người luôn tồn tại trạng thái phân đôi, trong sự giằng co và đối
lập của bất tử - khả tử, tốt - xấu, thiện - ác... Cũng theo thánh nhân, giữa
linh hồn và thể xác con người có sự thống nhất. Tuy nhiên linh hồn đóng vai trò
quyết định và điều khiển thân xác vì đó là sự sống và là lý trí của toàn thể
con người. Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy được theo như quan niệm của thánh
Augustinô thì giữa linh hồn và thân xác dường như có một dãi phân cách. Tuy nhiên
đó là sự phân cách trong vai trò chi phối toàn thể con người.
Trong khả năng hoạt động của linh
hồn, thánh Augustinô cho rằng: linh hồn con người có một sinh hoạt đặc biệt với
ba khả năng: trí nhớ, trí khôn và ý chí. Linh hồn là thực thể tinh thần kết hợp
với lý tính và điều khiển lý tính. Vì thế mà những hoạt động của linh hồn không
những có ảnh hưởng trong đời sống thực tại mà còn ảnh hưởng đến cả đời sống
siêu nhiên của con người.
2.
Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của học thuyết Platon, cho nên tư tưởng của thánh
Augustinô có khuynh hướng phân đôi hai thế giới, thế giới khả niệm và thế giới
khả giác. Chính ảnh hưởng đó đã khiến thánh nhân đã coi trọng những "sinh
hoạt" của linh hồn hơn những hoạt động của thể xác. Tuy nhiên, trong tư
tưởng ngài đã từng chống lại lập trường nhị nguyên của phái Mannicheisme. Điều
đó cho ta thấy thánh nhân không bao giờ xem thân xác vật chất là xấu; ngài
không cho rằng thân xác con người là tù ngục giam hãm linh hồn; và linh hồn
nhập thể không phải là do tội lỗi của mình. Đây chính là điểm "bứt
phá" ra khỏi sự chi phối hoàn toàn của tư tưởng Platon. Chính điều này đã
giúp thánh Augustinô tránh được những ảo vọng của một khuynh hướng duy kinh
nghiệm nguy hiểm mà nhiều học giả cùng thời và sau đó đã không tránh được .
Theo thánh Augustinô, sự liên kết
giữa linh hồn và thể xác trong hiện tại của con người không phải là một sự liên
kết lý tưởng. Đây chỉ là sự liên kết tạm thời và linh hồn sẽ lìa khỏi thân xác
khi con người chấm dứt sự sống tạm ở đời này để bước vào một đời sống vĩnh cửu
trong Thành Đô Thiên Chúa. Trong sự kết hợp này, thánh Augustinô đã đề cao vai
trò của thân xác, xem thân xác là phương tiện của linh hồn. Tức là linh hồn sử
dụng thân xác như một dụng cụ để mưu ích cho ơn cứu độ của linh hồn. Bởi linh hồn
là thiêng liêng, nên sẽ dùng thân xác, kết hợp với thân xác để hành động nhằm
mưu ích vĩnh cửu qua vật chất. Đó là "kiểu liên quan giữa một người thợ và
công cụ của họ hay giữa một nghệ sĩ và nghệ khí của họ".[6]
Như thế theo thánh nhân, linh hồn có khả năng chi phối được thể xác. Nhưng cảm
giác xuất phát từ thân xác thì không thể tác động ngược lại lên linh hồn. Thánh
nhân đã xem linh hồn như là một thực thể riêng biệt và độc lập. Giữa linh hồn
và thân xác không có trách nhiệm và ảnh hưởng biện chứng, tương hổ lẫn nhau.
3.
Trong nhãn quan của mình, thánh Augustinô khẳng định: "Thiên Chúa
là sự thiện chính yếu của con người và chúng ta phải tìm kiếm Ngài bằng tình
yêu cao nhất: không có sự thiện nào khác cho tạo vật có lý trí hay trí tuệ
ngoài một mình Thiên Chúa... Ngài là sự thiện hoàn hảo cho họ, khiến không có
Ngài thì họ chỉ có thể là bất hạnh"[7].
Đó là mục đích và khát vọng của con người hướng về Thiên Chúa. Khát vọng đó con
người có thể cảm nghiệm được trong chính những hành vi của suy tư, trong ước
muốn vì ngay chính trong con người bất toàn đã có tiềm ẩn một cái gì siêu việt
và lòng khao khát tuyệt đối.
Thánh nhân cho rằng: "Cuộc sống
trần gian là nhà tập của cuộc sống đời đời"[8].
Cuộc sống đời đời chỉ ở trong Thành Đô Thiên Chúa, ở đó mọi cái đều được xây dựng
bởi tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa. Cũng chính vì thế mà trên hành trình trở
về, thánh Augustinô đã bộc lộ khao khát của mình khi nhận ra rằng: "Lạy
Chúa, Ngài tạo dựng chúng con cho Ngài và trái tim chúng con không tìm được sự
nghỉ ngơi chừng nào nó chưa được nghỉ ngơi trong Ngài".[9]
Đó là khao khát mà con người luôn được mời gọi và hướng tới. Ước muốn hướng tới
cùng đích đó, theo thánh Augustinô là nó đã được cài sẵn trong tâm khảm của mọi
người, là một khao khát mãnh liệt và nó có thể chiến thắng được những níu kéo
của xác thịt. Cũng theo thánh nhân: khi tràn đầy ân sủng của Chúa, thân xác bây
giờ là thân xác tinh thần: vì lúc đó, nó vâng theo ý của tinh thần, không còn
có những chống đối xuất phát từ nơi chúng ta. Linh hồn được tôn vinh sẽ mạnh mẽ
thấm nhuần thân xác của mình đến nỗi sẽ kéo thân xác ra khỏi những điều kiện
của xác thịt và cho tham dự vào những điều kiện của mình. "Chính linh hồn
chúng ta sẽ hiện hữu cho thân xác; và nó thực hiện điều này cách trọn vẹn đến
nỗi ngay bản chất của thân xác cũng có tinh thần."[10]
Đó là sự chiến thắng của tinh thần hướng về Thành Đô Thiên Quốc vĩnh cửu.
4.
Trong vấn đề nhận thức của con
người, thánh Augustinô cho rằng: có một thế giới khả niệm mà ta có thể trực
giác được nhờ tri thức. Cũng theo thánh nhân: trong việc nhận thức khả giác, sự
vật khả giác không thể tạo ấn tượng trực tiếp trên trí khôn, nghĩa là sự vật
không thể tác dụng trực tiếp lên tinh thần, mà phải thông qua trung gian, đó là
những hình ảnh hay các ý niệm. Mặt khác thánh Augustinô cho rằng: trong con
người đã có sẵn những nguyên lý của lý trí và nguyên tắc của luân lý, cũng như
đã có sẵn quy luật cho mọi tư tưởng và hành động. Nó có trước và tự lập đối với
những hoạt động của các giác quan nơi con người. Vì thế mà thánh nhân đã kêu
gọi con người: "Hãy trở về trong ngươi vì chỉ trong con người nội tâm mới
có chân lý cư ngụ"[11];
và "trong chúng ta có ánh sáng của lý trí vĩnh cửu, trong ánh sáng này
chúng ta thấy được các chân lý bất di bất dịch".[12]
Những chân lý có sẵn trong con người đều xuất phát từ Thiên Chúa và thông qua
ánh sáng của Thiên Chúa con người có khả năng nhận biết được chân lý. Thánh Augustinô
khẳng định: trước khi sinh ra, chúng ta không sống ở một thế giới nào cả ở tiền
kiếp. Do đó chúng ta cũng không sống với những kỷ niệm của một cuộc sống chiêm
ngưỡng những lý tưởng hằng ngày, ngược lại "chính Thiên Chúa là ánh sáng
nội tâm soi sáng ta tham dự vào những chân lý thường hằng của Ngài và chiêm
ngưỡng những chân lý ấy".[13]
Như vây, con người có thể đạt được chân lý trường cửu chính là nhờ sự tham dự
vào ý tưởng của Thiên Chúa. Điều đó cho ta một nhận định rằng: Thánh Augustinô
đã không đề cao vai trò của cảm giác và giác quan trong việc nhận thức. Theo
ngài, việc nhận thức bằng giác quan chưa phải là một nhận thức đích thực và
những tri thức do các giác quan đưa đến là bậc nhận thức thấp nhất. Lý do thánh
nhân quan niệm như vậy là vì theo thánh nhân: "Có hai điều làm giảm thiểu
sự chắc chắn của tri thức bằng giác quan: một là các đối tượng của các giác
quan luôn luôn thay đổi, và hai là chính các giác quan của chúng ta cũng thay
đổi"[14];
hơn nữa loài vật cũng có được loại nhận thức này.
5. Về vấn đề tương quan giữa đức tin và lý trí
của con người, thánh Augustinô khẳng định sự liên kết chặt chẽ và bổ túc cho
nhau giữa đức tin và lý trí của con người. Thánh Augusitô cho rằng: Tin cũng là
một cấp độ hiểu biết, đó là một hoạt động của lý trí con người, nó đưa tới một
sự hiểu biết trí tuệ. Do đó, niềm tin không phải là điều trái ngược với lý trí.
Với quan niệm đó, thánh nhân đã để lại cho chúng ta một lập trường vững chắc: "Hãy
tin để hiểu và hãy hiểu để tin".[15]
Ta thấy rằng lập trường này không phải là một khuôn khổ cứng nhắc của thái độ
duy tín hay duy lý, mà là một sự tương hợp, gắn bó, bổ túc cho nhau giữa hai
lãnh vực: Đức tin và Lý trí. Một mặt cho ta thấy con người có thể tìm đến đức
tin qua nẻo đường của suy tư, của triết học, của kiến thức... Như thế không có
nghĩa là đức tin xuất phát từ lý trí, mà phải hiểu là lý trí trong nổ lực chuẩn
bị, khao khát tìm kiếm của nó, sẽ dọn chổ cho đức tin cư ngụ. Mặt khác ta thấy tin
không phải là chấp nhận một cách mù quáng hay là một thứ duy tín. Nhưng trên
con đường tìm kiếm của lý trí, nhờ ánh sáng đức tin, lý trí sẽ có được những
cột mốc chỉ đường vững chắc trên hành trình đi tìm chân lý. Như vậy, đức tin và
lý trí tương hỗ, củng cố và kiện toàn cho nhau. Tuy nhiên, đứng ở phương diện
khách quan ta thấy thánh nhân đã đề cao vai trò của đức tin hơn là lý trí. Theo
thánh nhân: "trước hết hãy chấp nhận những lý thuyết do đức tin đề ra, sau
đó mới tìm hiểu để đào sâu".[16]
Điều này cũng có nghĩa là thánh Augustinô đã đặt Đức tin làm nền tảng cho lý
trí trong việc nhận thức của con người. Thánh nhân đã lấy Đức tin làm định
hướng cho con người trong quá trình vươn lên và tiếp cận với chân lý.
6. Trong vấn đề tự do của con người, theo thánh Augustinô:
tự do là quyền quyết định như một trọng tài trước những chọn lựa. Đến đây thánh
Augustinô còn đi xa hơn khi cho rằng: sự tự do đích thực không cốt ở sự chọn
lựa điều thiện hay điều ác, song là khả năng vươn lên tới sự Thiện là chính
Thiên Chúa và là mục đích cuối cùng của con người mà không hệ lụy ở một ràng
buộc nào. Con người được ban cho khả năng chọn lựa để tìm đường trở về với
Ngài. Khi người ta chọn lựa điều xấu, là người ta đã lạm dụng khả năng này để
xa rời mục đích tối hậu của mình là Thiên Chúa. Ngược lại, khi con người sống
với sự tự do đích thực là họ sống với khả năng đón nhận ân sủng và biết xử dụng
sự tự do chọn lựa để phụng sự và chiêm ngưỡng Đấng Tối Cao. Con người được sáng
tạo tự do và trong tự do con người phải quy hướng về Thiên Chúa. Quy hướng và
lệ thuộc vào Thiên Chúa, con người không mất tự do, trái lại vì Ngài chính là
Chân, Thiện, Mỹ, là cứu cánh nên lệ thuộc và quy hướng vào Ngài con người được
tự do hơn.
7.
Thánh Augustinô cũng khẳng định rằng: Con người có tự do thì có sự ác.
Như vậy sự ác luôn đi đôi với sự tự do của con người và cái ác là sản phẩm của
ý chí, nó không phải là sản phẩm của ngu dốt. Con người có khả năng hướng tình
cảm của mình về các thụ tạo và cho đó là mục đích cứu cánh của đời mình để rồi
quay lưng lại với Thiên Chúa là sự Thiện tuyệt đối. Sự hướng về hay quay lưng
lại của con người với Thiên Chúa là hành vi tự do và hoàn toàn tự ý của chủ thể.
Sau khi có tội Nguyên Tổ, con người không còn có sự tự do tinh thần đích thực
và trọn vẹn ở đời này nữa. Con người bị tội lỗi, sự dữ chi phối và đã sử dụng
tự do ý chí để chọn những điều sai trái.
Thánh nhân cũng khẳng định rằng: Sự
ác không phải là điều tất yếu của công trình tạo dựng Thiên Chúa thực hiện.
Thiên Chúa không phải là nguyên nhân của cái ác hay điều xấu, vì "bản thân
cái ác, cái xấu hay bất công không phải là một thực thể mà là sự đồi bại của ý
chí, đã đi xa chệch Chúa, là thực thể cao nhất để đi xuống với những sự vật
thấp nhất"[17]. Con
người được Thiên Chúa sáng tạo, cho nên trong tự bản chất con người là thiện.
Thánh nhân cho rằng: sự ác không hiện hữu, đó là "sự vắng mặt của một sự
thiện phải có"[18].
Tóm lại, đó là kết quả của những tạo vật đã lạm dụng tự do, để tự chuốc lấy cho
mình bất hạnh.
Như vậy, ta thấy thánh Augustinô
trong nhãn quan về con người của mình, ngài đã đề cao và nhấn mạnh đến lãnh vực
siêu nhiên hơn tự nhiên. Ngài đã dung hợp nhãn quan đó với những kinh nghiệm
của ngài trên con đường trở về với Thiên Chúa, thể hiện rõ những suy nghĩ nội tâm. Thánh nhân đã khám phá ra những điều
kỳ diệu của con người theo hướng từ trên xuống, nghĩa là ngài xuất phát từ
những ân sủng của Chúa ban cho con người. Bên cạnh đó ta cũng thấy thánh
Augustinô đã trình bày tư tưởng của mình không phải ở thế giá của một triết học
gia. Thánh nhân chỉ trình bày nhãn quan của mình về con người nhằm mục đích là biện
minh cho niềm tin Kitô hữu trước sự xâm nhập và bành trướng tư tưởng của phái
Hoài Nghi và phái Manicheime trong nhân loại cũng như trong đời sống của Giáo
Hội.
II. CON NGƯỜI DƯỚI NHÃN QUAN CỦA THÁNH TÔMA
ĐACANH
Với nhãn quan độc đáo của mình về
con người, thánh Tôma Đacanh đã làm "phục sinh" tâm thức, tư tưởng
của nhân loại, hay ít nhất là của các Kitô hữu. Bởi lẽ, tuy rằng thánh
Augustinô là người đi trước và đã nhìn con người trong sự đan xen hài hòa giữa
tư tưởng Platon và sự "soi sáng" của ân sủng Thiên Chúa. Nhưng bầu
không khí triết học theo khuynh hướng Platon vẫn ảnh hưởng cách mạnh mẽ theo
hướng tiêu cực, ít nhất là trong Giáo Hội. Đặc biệt là đã gieo rắc sự miệt thị
đối với thân xác con người cũng như cuộc sống của họ. Trong tâm cảnh đó, thánh Tôma
Đacanh, dựa theo một số nền tảng triết lý của Aristote và đã tìm thấy một ánh
sáng mới khi tiếp cận với con người thực tại. Thánh nhân đã nhìn ngắm con người
trong tất cả những gì hiện hữu vốn có của nó. Để trong nhãn quan đó, cùng với
linh hồn, thánh Tôma muốn trân trọng thân xác cũng như những cấu tố của nó. Ở
đó, ngài khám phá ra những giá trị của thân xác cũng như những hoạt động của
thân xác ở đời này. Nơi nhãn quan của thánh Tôma, con người có sự đồng nhất
giữa siêu nhiên và tự nhiên theo nguyên lý: "Siêu nhiên không phá đổ nhưng
kiện toàn tự nhiên".[19]
1.
Con người trong nhãn quan của Thánh Tôma là một hữu thể duy nhất, được
cấu tạo bởi sự kết hợp chặt chẽ, không thể tách rời của linh hồn và thân xác.Thánh
nhân đặc biệt nhấn mạnh đến sự thống nhất nơi bản chất con người: Hồn-Xác,
không phải hai mà là một. Linh hồn và thân xác của con người là duy nhất và
đồng nhất. Linh hồn chính là phần tinh thần và thân xác là phần vật chất. Đó là
hai nguyên lý đồng cấu tạo nên hữu thể con người trọn vẹn. Thánh Tôma khẳng
định: Giữa linh hồn và thân xác con người có mối tương hỗ biện chứng với nhau. Không
có hồn, thân xác sẽ không có hình thức, sẽ không thể trở thành "là"
nó. Còn không có thân xác, linh hồn sẽ không có các cơ quan cảm giác cần thiết
để đạt được tri thức, sẽ không có phương tiện hữu hình để hoạt động trong thực
tại.[20]
Nói cách khác, tinh thần hay là hồn của con người sẽ không thể hình thành hay
hoạt động, dù là những hoạt động thông thường cho tới việc chiêm ngưỡng cao
siêu mà không cần đến thân xác làm phương tiện thực hiện. Ở đây ta thấy thánh
Tôma đã thoát ra khỏi ảnh hưởng của Platon. Theo thánh Tôma và cũng tương đồng
với thánh Augustinô thì linh hồn không bao giờ được xem là bị tù giam thân xác.
Thánh nhân cũng đồng ý rằng: thân xác vì là vật chất nên khả tử. Nhưng ngài
cũng cho rằng, nơi thân xác linh hồn con người mới biểu hiện được hết tất cả
những gì vốn có của nó. Chính nơi yếu tố vật chất con người bộc lộ được yếu tố
siêu nhiên của mình: "thân xác giúp cho linh hồn ta triển nở và bày tỏ các
năng lực của mình, để có thể gọi thân xác là sự tròn đầy của linh hồn"[21].
Đó chính là giá trị của thân xác.
2.
Thánh Tôma trong nhãn quan của mình, ngài đã đề cập nhiều đến giá trị
siêu nhiên cao quý của linh hồn con người. Ngài xem linh hồn chính là hình thức
của thân xác và hoạt động của linh hồn được thông qua các quan năng của thân
xác, đặc biệt là lý trí và ý chí. Linh hồn con người là vô hình, là lý trí, là
nguyên nhân đem đến nguồn sống cho con người và vượt trên cả bất tử, linh hồn
con người có tính bất diệt. Đó là đặc ân mà Thiên Chúa đã ban cho con người, vì
thế mà linh hồn con người có khả năng đạt tới cứu cánh tối hậu của mình là sự
hiệp thông với Thiên Chúa và được yêu mến Người. Nhờ được sự hiệp thông đó, mà "con
người duy trì được các mối liên hệ theo trật tự: các cơ quan cảm năng phục tùng
ý chí, ý chí phục tùng lý trí và lý trí phục tùng Thiên Chúa."[22]
Trong sự kết hợp mật thiết giữa linh
hồn và thân xác, thánh Tôma cho rằng: việc đó không gây trở ngại nào cho phẩm
giá cao quý của con người, cũng như đối với vận mệnh bất diệt của linh hồn. Con
người là "một thực tại với bản chất vừa vật chất vừa tinh thần."[23]
Điều này có nghĩa, những hoạt động của linh hồn có ảnh hưởng trong đời sống
thực tại và trong đời sống siêu nhiên. Cũng một tinh thần ấy, linh hồn ấy điều
khiển ước vọng đam mê xác thịt và cả trong việc đón nhận và sử dụng ân sủng để
dẫn con người đến hạnh phúc. Với thánh Tôma, linh hồn con người là mô thể của
thân xác, "có những sức của thân thể: những sức này sử dụng các cơ quan mà
công việc là cung cấp một cái gì đó cho các hành động của linh hồn".[24]
Như vậy, linh hồn là tinh thần đã ý thức về mình bằng cách xây dựng thân xác
mình trong tương quan với thế giới và qua thân xác linh hồn biểu hiện mình cách
trọn vẹn.
3.
Bàn về vấn đề mục đích cứu cánh của đời sống con người, thánh Tôma đã cố
gắng đi vào trong chính bản chất của con người để cho thấy rằng cơ cấu của con
người tự nó luôn có mục đích và khát vọng hướng về Thiên Chúa là Chân-Thiện-Mỹ,
là hạnh phúc vĩnh cửu. Thánh nhân cũng khẳng định: con người tìm về Thiên Chúa không
nhằm thỏa mãn óc lý luận muốn biết về mình cũng như về vũ trụ, nhưng còn là vì
trong cơ cấu của con người đã luôn có ước muốn được hạnh phúc, được sự thiện
tuyệt đối. Theo thánh nhân, dù linh hồn con người kết hợp với thân xác là yêu
tố vật chất, nhưng vẫn không ảnh hưởng đến tính bất diệt của nó trong việc
hướng về Vĩnh Cửu. Vì thánh nhân cho rằng: chỉ có một "mô thể" điều
khiển và chịu trách nhiệm về mọi sinh hoạt của tinh thần lẫn vật chất. Nó điều
khiển mọi hoạt động của thân xác và cả việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa cũng như
việc quy hướng về Ngài. Như vậy, đối với ước muốn quy hướng về Thiên Chúa nơi con người, thì
thánh Tôma đã xem như là một căn tính tất định sẵn có trong bản thể của mỗi
người chúng ta.
4.
Quan điểm của thánh Tôma trong việc nhận thức của con người: Ngài đặc
biệt đề cao vai trò của thân xác, nhấn mạnh đến khả năng của các cảm giác, giác
quan và nhất là vai trò của lý trí. Ngài cho rằng: con người có thể hiểu biết
những chân lý căn bản mà không cần đến ơn phù trợ trực tiếp của Thiên Chúa. Hơn
nữa, từ vật chất con người cũng có thể khám phá được Thiên Chúa. Trong quá
trình con người tiếp cận với các chân lý, theo thánh Tôma: Trừ những thực tại
tinh thần thuần túy ra thì không có gì có trong trí khôn mà không thông qua
giác quan. Theo nguyên tắc: đối tượng được nhận thức nằm ở trong chính chủ thể
nhận thức và việc nhận thức các đối tượng đều theo hình thái của chủ thể nhận
thức. Hơn nữa, theo thánh nhận thì dù con người có những nguyên lý căn bản của
lý trí, những cũng phải nhờ đến kinh nghiệm để xuất hiện và phát triển.[25] Cũng
theo thánh Tôma, những ý tưởng của lý trí không phải do bẩm sinh mà là do sự
trừu xuất từ những hình tượng trung gian mà giác quan cung cấp. Dù rằng, khả
giác và các sự vật khả giác không thể tác dụng trực tiếp lên tinh thần, mà phải
thông qua trung gian, là những hình ảnh hay các ý niệm. Nhưng "không thể
có nhận thức nếu không có kinh nghiệm giác quan, vì không thể có gì trong trí
tuệ nếu nó không có trong giác quan trước đã".[26]
Cũng theo thánh nhân, không phải chỉ riêng trí tuệ suy tưởng và tiếp cận chân
lý nhưng là cả con người. Như vậy, thánh Tôma đã phủ nhận tư tưởng của Platon.
Đó cũng là điểm độc đáo và mới mẽ của thánh Tôma so với truyền thống.
5.
Đề cập đến vấn đề mối liên quan giữa Đức tin và Lý trí, thánh Tôma đã có
sự đồng tình với thánh Augustinô. Thánh nhân đã khẳng định sự liên kết chặt chẽ
và bổ túc cho nhau của hai lãnh vực khác nhau này. Theo thánh Tôma, Đức tin là
phạm vi của huyền nhiệm siêu nhiên còn Lý trí là phạm vi của khoa học. Đó hoàn
toàn là hai lãnh vực khác nhau và chúng có những điểm khác biệt nhau, nhưng lại
không đối nghịch nhau. Thánh nhân cho rằng cả hai lãnh vực này cùng lớn lên và
cùng tồn tại trong nhau nơi đời sống của con người. Nó bổ túc và hỗ trợ nhau để
nên trọn vẹn, đồng thời phong phú hóa cho nhau, cùng làm nên giá trị đích thực
cho con người. Thánh Tôma cho rằng: chân lý phát xuất từ Thiên Chúa là chuẩn
mực của mọi chân lý, là thước đo của mọi chân lý siêu nhiên và tự nhiên. Vì
vậy, về nguyên tắc không thể có sự mâu thuẫn giữa thần học và triết học, giữa
đức tin và lý trí. Ngược lại, "Đức tin và Lý trí được ví như đôi cánh giúp
con người vươn cao lên trong sự chiêm niệm chân lý".[27]
Giữa chúng có liên hệ tương hỗ nhau: "khi lý trí kết hợp với đức tin sẽ
làm cho việc nắm bắt những chân lý trở nên vững chắc và khả hữu hơn."[28]
Mặt khác, Tin là hành vi không hoàn toàn thuộc về phạm vi siêu nhiên, mà tin
còn là hành vi của trí tuệ gắn bó với chân lý của Thiên Chúa. Tuy nhiên trong
hành vi đặc biệt này, con người thực hiện dưới sự điều động của ý chí được ân
sủng của Chúa lay động. Đây là một cảm nhận sâu xa của thánh Tôma, nó thể hiện
được sự kết hợp giữa ân sủng và ý chí trong con người.
6.
Trong vấn đề tự do của con người, thánh Tôma cho rằng: đó là quà tặng
của Thiên Chúa ban cho con người. Là khả năng chọn lựa yêu mến, quy hướng phục
tùng và vươn lên tới Thiên Chúa hoặc là con người chống lại Thiên Chúa, chống
lại công bằng, sự thiện hay sự tốt lành. Con người là một chủ thể luân lý, nên
con người luôn có ý thức trước những hành động của bản thân. Nghĩa là con người
tự do hoạt động có trách nhiệm, biết dùng suy luận để cân nhắc các lý lẽ trước
khi hành động và có ý chí để điều khiển các hành vi. Con người có tự do hướng
về hạnh phúc và tìm cách đạt đến sự thiện tuyệt đối.[29]
7.
Bàn về vấn đề sự ác và điều xấu, thánh
Tôma cũng tương đồng với quan điểm đi trước của thánh Augustinô, ngài cho rằng:
đó không phải là điều tất yếu của công trình tạo dựng Thiên Chúa thực hiện.
Thiên Chúa không phải là nguyên nhân của cái ác hay điều xấu. Theo thánh nhân
cái ác hay điều xấu không phải là một hữu thể được tác thành. Nó xuất hiện cùng
với con người và trong đời sống của con người nhưng nó không phải là cái khẳng
định, mà nó chỉ là cái phát sinh kèm theo của các hành vi của con người. Nguyên
nhân của nó là sự thiếu vắng điều thiện đáng lý phải có nơi những sự vật, sự
kiện hay hành vi. Bên cạnh đó còn là do việc con người đã chọn lựa điều sai
trái đi kèm với sự tự do của mình.
Đối với vấn đề bất hảo của vũ trụ
thánh Tôma cho rằng: sự hoàn hảo của vũ trụ đòi hỏi phải có sự bất hoàn hảo của
các hữu thể. Đó là khả năng tạo ra hư hoại của các hữu thể chứ không phải là
tất yếu có hữu thể hư hoại. Đối với thánh Tôma, các tạo vật Thiên Chúa dựng
nên, được phân cấp theo sự hoàn hảo của nó. Tuy nhiên, sự bất hảo nơi các tạo
vật trong bản chất vốn là những tiềm thể và các tạo vật luôn có khả năng biến
đổi các tiềm thể sang hiện thể.[30]
Như thế cho ta thấy: nhìn nhận giá trị của tạo vật là tôn vinh Đấng tạo Hóa.
Nhìn chung lại ta có thể nói: Thánh
Tôma Đacanh đã nhìn con người bằng cách nhìn từ dưới lên. Nghĩa là thánh Tôma
xuất phát từ những gì đã có và đang có của con người thực tại để khám phá ra
những huyền nhiệm siêu nhiên nơi con người. Chính vì thế mà ta thấy được tư
tưởng của thánh Tôma gần gũi với thực tế hơn, giúp chúng ta dễ nắm bắt hơn. Ta
cũng có thể nói: Thánh Tôma như đang kéo thế giới huyền nhiệm, siêu nhiên gần
lại với những thực tại sống động và cụ thể nơi con người. Mối bận tâm của ngài
là tìm kiếm những nền tảng triết lý để có thể làm sáng những chân lý về con
người nhằm biện hộ cho của niềm tin Kitô giáo. Do đó ta cũng dễ nhận thấy trong
triết học của thánh nhân có sự tổng hợp giữa các học thuyết đi trước của
Aristote và của thánh Augustinô.
III. NHẬN ĐỊNH CHUNG
Nghiên cứu nhãn quan của thánh
Augustinô và thánh Tôma Đacanh về con người được trình bày trong tư tưởng triết
học của các ngài ta thấy: khi trình bày nhãn quan của mình về con người, các
ngài đã không chủ trương xây dựng thành một hệ thống triết lý hay tìm một lập
trường triết lý về con người vì triết học. Nhưng điều quan trọng mà cả hai
thánh đều muốn nhắm đến là biện hộ cho niềm tin của Giáo Hội. Các ngài muốn
khẳng định: con người là một công trình kỳ diệu của Thiên Chúa, là cầu nối giữa
thế giới huyền nhiệm siêu nhiên của Thiên Chúa với thực tại tự nhiên của vũ
trụ. Qua đó các ngài cũng muốn bộc lộ tư tưởng rằng: khi nhìn nhận giá trị của
con người, tức là đồng nghĩa với việc suy tôn vinh quang của Thiên Chúa.
Hai thánh Augustinô và thánh Tôma đã
có công lớn đối với Giáo Hội trong việc đã Kitô hóa được hai tư tưởng triết học
lớn của nhân loại và đã tạo nên được hai truyền thống đứng song song nhau trong
lòng Giáo Hội là truyền thống Platon-Kitô giáo và truyền thống Aristote-Kitô
giáo. Hai truyền thống này như đôi cánh tăng thêm sức mạnh cho Giáo Hội trong
cuộc chiến đấu và bảo vệ đức tin của mình trước sóng gió thời đại.
Thánh Augustinô và Thánh Tôma Đacanh
là hai con người thuộc hai thời đại khác nhau, tuy nhiên hai thánh co điểm
chung là cùng nhìn con người trong một đức tin. Vì vậy, trong hai nhãn quan ta
thấy được những điểm tương đồng và những điểm khác nhau. Điều đó nó bổ túc cho
nhau để cả hai cùng đưa đến cho Giáo Hội và cho nhân loại một nhãn quan đầy đủ,
chính xác và khách quan về con người như tất cả những gì con người đã có, đang
có và sẽ có.
Jos. Magnificat LX. K12
[1] HĐGMVN, Tóm lược học thuyết xã hội
của GHCG, số 114 (nxb: Tôn Giáo, 2007), 103.
[2] Nguyễn Trọng Viễn O.P, Lịch sử
triết học Tây phương, Tập II (Học viện ĐaMinh, 1998), 66.
[3] Nguyễn Trọng Viễn O.P, Lịch sử
triết học Tây phương, 194.
[4] Samuel Enoch Stumpf, Lịch sử triết
học và các luận đề, n.d. Đỗ Văn Thuấn-Lưu Văn Hy, Hà Nội: nxb Lao Động, 2007,
116.
[5] Nguyễn Tiến Dũng, Lịch sử triết
học tây phương (nxb: TP HCM, 2006), 186.
[6] Lê Tôn Nghiêm, Lịch sử triết học
phương tây, tập III, triết học thời trung cổ, (nxb TP HCM, 2000), 40-41.
[7] Samuel Enoch Sfumpf & Donald
C.Abel, Nhập môn Triết học, n.d. Lưu Hữu Bằng, nxb: Tổng Hợp TP HCM, 2004, 295.
[8] Nguyễn Trọng Viễn O.P, Lịch sử
triết học Tây phương, 41.
[9] Tự thuật của thánh Augustinô, n.d
Vân Thúy, 32.
[10] St. Augustinô. Sermo 242, II, trích
từ: Jean Mouroux, Quan niệm Kitô giáo về con người, n.d.Trần Thái Đỉnh-Nguyễn
Bình Tĩnh, ĐCV Huế, 1997, 160.
[11] Lê Tôn Nghiêm, Lịch sử triết học
phương tây, triết học thời trung cổ, 47.
[12] Samuel Enoch Stumpf, Lịch sử triết
học và các luận đề, 118.
[13] Lê Tôn Nghiêm, Lịch sử triết học
phương tây, triết học thời trung cổ, 48.
[14] Samuel Enoch Stumpf, Lịch sử triết
học và các luận đề, 116.
[15] Nguyễn Trọng Viễn O.P, Lịch sử
triết học Tây phương, 48.
[16] Lm. Ga Nguyễn Hồng Pháp, Đại cương
Triết học Tây Phương, ĐCV Vinh Thanh, 2012, 40.
[18] Lm.
Ga Nguyễn Hồng Pháp, Đại cương Triết học Tây Phương, 2012, 42.
[19]
Nguyễn Trọng Viễn O.P, Lịch sử triết học Tây phương, 195.
[20]
Samuel Enoch Stumpf, Lịch sử triết học và các luận đề, 160.
[21] Quan
niệm Kitô giáo về con người, n.d. Trần Thái Đỉnh-Nguyễn Bình Tĩnh, ĐCV Huế,
1997, 116.
[22] Học thuyết Thánh Thomas Aquinas, "Thần Học Về Con Người Theo Các Giáo Phụ Và Thánh
Tôma", 2010, http://www.daminhvn.net. Truy
cập ngày 3 tháng 3 năm 2012.
[23]
Samuel Enoch Stumpf, Lịch sử triết học và các luận đề, 156.
[24] Quan
niệm Kitô giáo về con người, n.d. Trần Thái Đỉnh-Nguyễn Bình Tĩnh, ĐCV Huế,
1997, 69.
[25] Lm. Ga
Nguyễn Hồng Pháp, Đại cương Triết học Tây Phương, 2012, 73.
[26]
Samuel Enoch Stumpf, Lịch sử triết học và các luận đề, 161.
[27] ĐTC
Gioan Phaolô II, 14/9/1998, Thông điệp "Fides et Ratio" (Đức tin và
Lý trí), n.d. Lm Nguyễn Hồng Giáo, 2006.
[28] Lm.
Ga Nguyễn Hồng Pháp, Đại cương Triết học Tây Phương, 2012, 80.
[29] http://www.daminhvn.net.
[30]
Samuel Enoch Stumpf, Lịch sử triết học và các luận đề, 155.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét