Dẫn
nhập
Thi sĩ Dante
viết: “Luca là một văn sĩ về lòng thương
xót Chúa”(Seriba mansuetudiris Christi). Với tư cách là một văn sĩ chân
chính, Luca sáng tác nên một dung mạo Chúa Giêsu không thể nào quên được. Một
Thiên Chúa giàu lòng xót thương đến để cứu độ tất cả mọi lớp người. Nơi Ngài,
những người ngoại Samaritanô(10,30-37), người tội lỗi (7,36-50), người nghèo
(16,19-31), người thu thuế(19,1-10), người trộm cướp(23,39-43)… đều được Ngài đề
cao, xót thương và cứu độ. Ngay từ đầu Tin Mừng, Luca đã chỉ cho chúng ta biết
đến tình tiết chính ông cũng đã được Tin Mừng hóa. Từ đó, Luca cũng muốn Tin
mừng hóa mọi người như vậy. Câu chuyện về ông Da-kêu (Lc 19,1-10) là một trong
số nhiều dẫn chứng để cho thấy điều đó. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu và chú
giải đoạn trích này, từ đó chúng ta rút ra một vài kết luận làm bài học cho bản
thân trên bước đường theo Chúa.
I/ Cuộc gặp gỡ giữa Chúa và Da-kêu (Lc
19,1-10)
Thánh sử Lu-ca diễn
tả câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giê-su và ông Da-kêu. Câu chuyện này
được đặt vào phân đoạn cuối của cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem của Chúa
Giêsu (Lc 9,51-19,27). Suốt cuộc hành trình này, Chúa Giê-su luôn luôn đem đến
cho dân chúng phúc lành, mỗi chặng đường Chúa đi là một cuộc chữa lành: “Đi
tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó”(Cv 10,38). Đoạn Tin mừng (Lc 19,1-10),
được coi là chặng thi ân cuối cùng trước khi Chúa vào thành Giê-ru-sa-lem, và
cũng là chặng tóm lược các bước tiến đến gặp gỡ ơn cứu độ.
1/ Thân thế Da-kêu và sự kiện dẫn ông đến
với Chúa.
Ông Da-kêu là
người đứng đầu hạng người thu thuế, giống như một chủ thầu. Ông dựa vào luật đế
quốc Rô-ma để tự do định mức thu tiền thuế, có thể ông nâng cao mức thu để lấy
phần dư sau khi đã nộp đủ mức thuế cho cấp trên. Tất cả tiền thặng dư sẽ thuộc quyền
ông định đoạt và chia chác. Nghề thu thuế buộc ông phải tiếp xúc với mọi hạng
người, kể cả người ngoại giáo. Chính nghề thu thuế cũng đưa ông đến chỗ cộng
tác với đế quốc, để đè đầu dân mình mà thu thuế. Bởi lề luật, mà người Do Thái đã
xếp các người thu thuế vào hạng người ô uế, ngang hàng với người tội lỗi, trộm
cắp và chỉ đứng sau gái điếm. “Da-kêu lại là người đứng đầu hàng thu thuế, nên
lại càng bị khinh khi hơn” 2.
Do bị xếp vào vị
trí rốt cùng của xã hội Do Thái, nên việc Da-kêu được ơn cứu độ có tầm vóc quan
trọng hơn sự kiện người mù được thấy trước đó(18,35-43). Trước khi Chúa Giêsu
vào thành Giê-ri-khô, thánh sử Lu-ca đã diễn tả cho về cuộc gặp gỡ giữa Chúa
với anh mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Ngồi xin bên vệ đường cũng thuộc lớp người
ở ngoài rìa xã hội, ngồi đó mà không tham gia được vào dòng người đang đi lại
trên đường được. Nhưng anh mù rất đỗi hạnh phúc vì sau khi được Chúa chữa cho
khỏi mù, anh ta được tháp nhập vào đoàn người đi đường mà tung hô Thiên
Chúa(18,43). Sự kiện lớn đó, chắc hẳn đã vang vọng đến tai Da-kêu.
2/ Lòng khao khát gặp Chúa của Da-kêu đã
thúc đẩy ông hành động
Đoạn trích này
cho thấy Da-kêu quả thực có một lòng khát khao gặp Chúa vô cùng lớn. Có thể ông
Da-kêu đã nghe kể về Chúa Giê-su nhiều rồi, nhưng sự việc anh mù được chữa
trước cổng thành đã làm cho lòng ông bừng cháy một sự khao khát gặp gỡ Chúa
mạnh liệt hơn. Bây giờ là dịp thuận tiện nhất để tỏ bày lòng khát khao đó, vì
với Da-kêu, đây là một cơ hội độc nhất vô nhị để gặp được Chúa. Bởi thế, Da-kêu
đã vượt qua mọi trở ngại, rào cản về thể lý cũng như tâm lý và cả tôn giáo để
gặp gỡ Đức Giêsu. Ông đã quyết định mở lòng mình ra, không còn phải khép nép,
sợ hãi vì dư luận. Ta biết rằng, ông là người giàu có về tiền bạc, lại có chức,
có quyền nhưng ông là kẻ thất bại trong tương quan với đồng bào mình. Ông bị người
Do Thái xa lánh ghẻ lạnh, chính ông đã cảm nghiệm được sự khép lòng của họ đối
với ông... Bởi thế, nên khi nghe có một con người không hề xa lánh kẻ tội lỗi, chẳng
hề đối xử bất công, lại rất gần gũi và yêu thương mọi lớp người, trong đó có
ông mà người đó lại sắp đi qua thành phố, nên ông quyết định gặp cho bằng được.
Có lẽ ông không chỉ muốn xem cho tường tận con người kỳ lạ đó là ai, nhưng biết đâu được trong lòng ông đang chờ đợi
một điều gì đó nơi Chúa Giêsu.
Dưới con mắt
người Do Thái, Da-kêu không những chỉ là một kẻ thấp lùn về thể lý, mà còn bị
coi là thấp kém về giá trị nhân phẩm. Mặc dầu ông thấp, nhưng vì lòng khao
khát, đã không hổ thẹn trèo lên một cái cây như một đứa trẻ con để nhìn cho
được Chúa. Thử tượng tưởng xem, đường đường là một vị quan thu thuế, bệ vệ
trong bộ áo thụng thịnh, lại chạy thoăn thoắt đến một cái cây và trèo lên, đu
người lên như một đứa trẻ… chúng ta có thể cảm nhận được lòng khao khát gặp
Chúa nơi Da-kêu lớn đến cở nào. Một khi lòng cháy bỏng thì không quan ngại hành
động trèo cây là của trẻ con, bất chấp vì nhân phẩm bị khinh khi, Da-kêu đã vượt
lên trên mọi rào cản để chiến thắng chính mình. “Ông liền chạy tới phía trước,
leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu, vì Người sắp đi qua đó”(Lc 19,4). Hành
động chạy về phía trước của Da-kêu nói lên việc chiếm được Nước trời không dành
cho những ai nhút nhát, sợ hãi, uể oải và ù lì trong lười biếng, tội lỗi hoặc
thụt lùi về nhân đức. Một điều chắc chắn nữa là Thiên Chúa sẽ không bao giờ để
quên những kẻ khát khao tìm kiếm Ngài. Khi Da-kêu đã chiêm ngắm được Chúa chắc
chắn Ngài sẽ đoái nhìn lại và bày tỏ tình thương với ông.
3/ Tình yêu thương của Chúa chạm đến Da-kêu
Chúng ta thử đặt
giả thiết, nếu Chúa Giêsu đi ngang qua mà Ngài không nhìn lên Da-kêu, thì cuộc
đời của ông sẽ thể nào? Đám đông đi qua rồi, ông lại lủi thủi tuột xuống khỏi cây
và tiếp tục lối sống cũ. Như thế, bước đường của ông đến đó gặp ngõ cụt mọi
chuyện với ông đâu lại vào đấy. Và nếu Chúa không nhìn đến ông thì Chúa cũng chẳng
khác gì những người Do Thái khác, là coi ông như chẳng hiện hữu. Nhưng Chúa đã
nhìn lên ông và cho biết Ngài sẽ trọ lại nhà ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau
đi, vì hôm nay Tôi phải ở lại nhà ông”(Lc 19,5). Đây là một sự bất ngờ vượt quá
sự mong đợi và nằm ngoài suy nghĩ của Da-kêu. Ông thấy lòng mình bừng cháy niềm
vui, vì được Chúa quan tâm như vậy. Thực ra, Chúa từ lâu đã biết rõ lòng ông
đang muốn gì và Ngài đã quyết định trọ lại nhà ông. Chúa chủ động trên bước
ngoặt cuộc đời Da-kêu, Ngài đã nhìn lên để mở tiếp con đường cho ông đi. Sự
việc trọ lại trong nhà ông là một cuộc viếng thăm nằm trong chương trình của
Chúa. Ngài nói “hôm nay” không chỉ là
yếu tố thời gian, nhưng là một kế hoạch trong chương trình ban ơn cứu độ của
Thiên Chúa, mà Ngài đã thực hiện tại Na-gia-rét(Lc 4, 18-22). Suốt cuộc hành trình
này, điều chủ yếu của Ngài là quan tâm đến người nghèo, kẻ tội lỗi và cả người
dân ngoại nữa. Ngài đồng bàn với người tội lỗi là đem mối thân tình đến cho họ,
xoá tan mọi ngăn cách và nâng họ lên, cho họ biết rằng họ cũng là con cái của
Thiên Chúa, xứng đáng được ơn cứu độ. Đối với Da-kêu đó là một diễm phúc quá
lớn, vì từ một vị thế bị khinh khi, ghẻ lạnh và thấp kém về giá trị trong con
mắt đồng bào Do Thái, mà giờ đây đã được Chúa xóa đi. Ông đầy hãnh diện, sung
sướng vì được chung bàn với một vị lẫy lừng danh thơm tiếng tốt đầy quyền uy, mà
vị ấy sẵn sàng xóa tan mọi sự thấp bé để nâng ông lên.
Nỗi băn khoăn,
căng thẳng, mặc cảm vì bị rẻ rúng của Da-kêu nay đã được Chúa đến xua tan. Thay
vào đó là niềm vui, an bình đã tràn ngập cõi lòng Da-kêu. Mặc dầu thánh sử Luca
không nói tới gia nhân, người thân trong gia đình của ông như vợ con.. nhưng chắc
chắn cả đại gia đình ông đều tràn ngập sự bình an và vui sướng. Chắc chắn là
tất cả mọi người trong nhà đều tập trung cho công việc dọn tiệc thết đãi Chúa. Vì
thế Chúa đã nói: “hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là
con cháu tổ phụ Áp-ra-ham”(Lc 19,9). Như thế, việc Chúa Giêsu đoái nhìn đến
thân phận Da-kêu, Ngài đến nhà và ngồi đồng bàn với gia đình ông, đã trở thành
động lực khiến ông thay đổi cuộc đời cách hoàn toàn. Ông đã không chút hồ nghi
về thân thế Chúa Giêsu, vì qua Ngài ông cảm nhận được tình yêu và lòng xót
thương vô bờ bến của Thiên Chúa.
4/ Da-kêu đã có sự đổi mới cuộc đời
Ta thấy, Chúa
Giêsu thì đến nhà và cùng đồng bàn với gia đình Da-kêu, hoàn toàn trái ngược với
những người Do Thái tự cho mình đạo đức. Họ xầm xì trách móc Chúa: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng
vào trọ”(Lc 19,7). Người Do Thái xầm xì vì họ tự cho mình là tốt lành và đối
với họ hạng người thu thuế là không hề xứng đáng để được cứu độ. Chúa đã bỏ
ngoài tai mọi chỉ trích đó, Ngài muốn cho họ biết rằng ơn cứu độ là dành cho tất
cả mọi người, thuộc mọi quốc gia, sắc tộc chứ không riêng gì người Do Thái. Đó
chính là tính phổ quát của ơn cứu độ. Qua sự việc đó cho thấy sự công chính và
ơn cứu độ không phải do con người quyết định mà chính Thiên Chúa mới cứu độ con
người. Phần con người có được cứu độ hay không là do họ có lòng ước muốn sẵn
sàng khiêm tốn mở lòng ra để đón nhận.
Được Chúa Giê-su
đồng bàn và xoá tan mọi ngăn cách, Da-kêu chủ động sám hối, vì qua bữa tiệc
này, ông hiểu là ông được kêu gọi đi vào hiệp thông với Thiên Chúa. Như vậy, nhờ
trung gian của Đức Giêsu ông đã nhận được ơn cứu độ dù ông chỉ là một người tội
lỗi (Lc 19,9). Từ đây, ông thay đã đổi hẳn cuộc đời của mình. Ông công khai nói
với Chúa và mọi người rằng tài sản của ông sẽ chia cho người nghèo một nửa và
mọi thiệt hại do ông gây ra cho bất cứ ai thì ông xin đền gấp bốn. Như thế, của
cải, giàu sang, địa vị, quan quyền chẳng là gì cả so với cuộc viếng thăm của
Chúa Giêsu. Qua cuộc viếng thăm này ơn cứu độ
đã tràn ngập trong nhà ông.
II/ Một vài điểm kết luận áp dụng
Ta thấy trước đây,
người đồng bào chẳng coi Da-kêu ra gì, họ tránh tiếp xúc với ông, và chính Da-kêu
cũng chẳng hơn gì ai, ông sẵn sàng đè đầu người ta để thu thuế, thậm chí nâng
cao mức thu, miễn sao có nhiều của cải. Bằng chứng việc này thể hiện nơi lời
thú tội của ông: “Nếu làm thiệt hại ai thì xin đền gấp bốn”. Người Do Thái và
ông không tìm được điểm chung, nhưng khi được Chúa quan tâm đến, ông lập tức mở
lòng ra với người chung quanh, sẵn sàng phân phát của cải cho người nghèo, và
ông bắt đầu nghĩ về những người mà ông đã làm thiệt hại từ trước đến giờ. Đây chính
là biểu hiện sức mạnh của tình yêu. Khi con người sống trong thù hận thì bác ái
không triển nở, nhưng khi có tình yêu thì bác ái là sợi giây liên kết họ lại
với nhau. Chúa Giê-su đã đem tình yêu đến cho Da-kêu, nên ông đã phá bỏ mọi
ngăn cách với người khác và hoa quả tình yêu nơi ông bắt đầu khai nở. Ông coi
mọi người là tha nhân, là đối tượng để ông trao ban tình yêu, đặc biệt là người
nghèo. Bài học cho ta là những chủng sinh linh mục tương lai, ta phải luôn biết
xây dựng tình yêu (yêu Chúa và yêu tha nhân), khi có tình yêu thực sự, ta sẽ dễ
dàng sống khó nghèo đứng về phía người nghèo và yêu thương phục vụ họ
được.
Ta cũng cần biết
tránh xa thái độ của người Do Thái là hờ hững, khinh khi người khác, nhất là
đối với người tội lỗi. Ta không được phép xét đoán và nhìn người khác theo nhãn
quan tiêu cực, nhưng phải đón nhận họ dù họ là ai. Ngược lại, phải có cái nhìn
tích cực, sẵn sàng đón tiếp mọi hạng người, đưa họ đến gặp Chúa. Hơn nữa, người
mục tử tương lai phải biết hy sinh tính mạng vì chiên, như Chúa đã làm, để qua
đời sống của ta, mọi người nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Da-kêu không chỉ
là người thu thuế mà lại là người giàu nữa, mà người giàu có thì khó vào nước
trời: “Con Lạc Đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước trời”(Lc 18,25). Như thế, theo con mắt của
người Do Thái đạo đức, thì Da-kêu là hạng người không thể được cứu độ là không
phải không có lý của họ. Vì thế mà mỗi lần Chúa Giê-su tiếp xúc hạng người bị
cho là tội lỗi thì người Do Thái đều khiển trách và bực tức Chúa. Nhưng tự con
người không thể cứu mình được, dù là người dự đúng luật Mô-sê. Thiên Chúa mới
là chủ thể ban ơn cứu độ cho con người. Ngài là Đấng công chính, thực hiện ơn
cứu độ trên người đạo đức cũng như người tội lỗi. Sự kiện Da-kêu được cứu là
lời giải đáp thắc mắc cho các môn đệ:“Thế
thì ai có thể được cứu”(Lc 18,26). Ai mở lòng ra đón Chúa Giêsu, thì
người ấy dĩ nhiên nhận được ơn cứu độ, vì Ngài là Đấng thực thi ơn cứu độ mà
Thiên Chúa hứa ban cho nhân loại, và chính Ngài là ơn cứu độ. Ngài nói: “Thầy
là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không
qua Thầy”(Ga 14,6).
Quả thật, chạy
suốt Tin mừng Lu-ca, chúng ta thấy cuộc hành trình của Chúa từ lúc bắt đầu cho
đến cuối là một cuộc hành trình thi ân giáng phúc cho dân, đặc biệt cho người
nghèo và người tội lỗi bị xã hội khinh bỉ. Ba thế lực khống chế con người mà
Chúa luôn quan tâm và chữa khỏi, là trục xuất ma quỉ ra khỏi con người(4,35;
8,26-33; 9,42), các bệnh tật thể lý(4,39-40; 5,13.24-26; 6,10; 13,10-12; …) và
cho người chết sống lại(7,14-15; 8,55). Đồng thời, Chúa tháo bỏ rào cản, mở
đường cho người tội lỗi thấy mình cũng được Thiên Chúa yêu thương(5,21-32;
18,13-14; 19,1-10). Qua các cuộc chữa lành, nhất là sự kiện ông Da-kêu được
cứu, chúng ta thấy Thiên Chúa luôn luôn chủ động đến với con người, săn sóc con
người và chữa lành mọi vết thương cho con người. Ngài đến với con người để
tìm và cứu lấy những gì đã mất (x.Lc 19,10). Nhưng để được cứu, con người phải
có lòng khao khát và muốn được cứu như ông Da-kêu.
Xét về khả
năng con người, bất cứ ai cũng nhận thấy được mình bị “lùn” một
cách nào đó. Người lùn về thể lý không đáng lo ngại bằng kẻ lùn,
thấp về tri thức, giá trị nhân phẩm, tình thương yêu đồng loại… Chỉ
khi chúng ta ý thức được mình bị lùn về nhiều khả năng để có thể
sống với Chúa và tha nhân, ta mới khiêm nhường trèo lên những “cây
sung”. Cây sung đó có thể là người bạn, là thầy ta, hay đứng trên vai
các vị thánh, các thánh Giáo Phụ, các nhà khoa học… đặc biệt là qua trung
gian Giáo Hội để tìm kiếm chân lý và tìm về với Chúa là cùng đích
đời ta. Mặc dù nói như Thánh Phaolô “Ơn Chúa đủ cho ta”(2 Cr 12,9), nhưng để
được cứu độ, đòi buộc ta phải hết sức cộng tác với ơn sủng Chúa ban.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét