Thứ Bảy, 1 tháng 10, 2016

Lời sấm của ngôn sứ Na-than (2Sm7, 8-16)


I/ Dẫn nhập
Đọc lại lịch sử cứu độ thời Cựu Ước chúng ta dễ dàng nhận ra ba điểm then chốt Thiên Chúa đã thực hiện trên các nhân vật trong các câu chuyện được xây dựng trong Kinh Thánh, đó là: Tuyển chọn – Lời hứa – Kết ước. Khởi đi từ lời hứa cứu độ (x. St 3,15; 9,9) Thiên Chúa sẽ thực hiện sau khi nguyên tổ phạm tội. Việc Thiên Chúa đã tuyển chọn Nô-e, Áp-ra-ham, Giuse, Mô-sê, Giô-suê rồi đến Đa-vít… Như thư Do Thái viết: “Thủa xưa, nhiều lần nhiều cách đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ…”(x. Dt 1, 1)
Có thể nói, lịch sử cứu độ sang trang khi Thiên Chúa tuyển chọn vua Đa-vít. Từ một con người được tuyển chọn là Áp-ra-ham, Thiên Chúa hứa ban cho ông dòng giống như sao trên trời, như cát ngoài biển(x. St 22,17). Dòng giống ấy bành trướng từ một gia đình, đến một dân tộc và sau đó là một quốc gia. Khi Đa-vít được xức dầu tấn phong, niềm hy vọng cứu độ quay sang một hướng mới. Hướng mới đó thể hiển cách rất đặc biệt và rõ ràng nơi lời sấm của ngôn sứ Na-than trong (2Sm7, 8-16) mà sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu. Như Áp-ra-ham đã là cha của tất cả dân Ít-ra-en, cha những kẻ tin; cũng như Mô-sê là trung gian để Thiên Chúa ràng buộc chính Ngài với dân Ngài trong một tôn giáo thật sự, được đặt nền tảng trên Giao Ước. Đến lượt Đa-vít, Thiên Chúa đã chọn ông để thiết lập một vương quốc mà đến một ngày nào đó, sẽ trở nên vĩnh cửu và phổ biến, trong đó ơn Cứu độ được tìm thấy. Từ đây, niềm hy vọng cứu độ của Ít-ra-en cũng chính là niềm hy vọng của cả nhân loại sẽ hướng về triều đại của Đa-vít, vị vua đang cai trị lúc đó và đặc biệt về một vị vua vĩ đại sẽ đến trong tương lai, phát xuất từ dòng dõi của Đa-vít.
II/ Thiên Chúa tuyển chọn vua Đa-vít
Theo lẽ thường thì kẻ được chọn lên kế vị Sa-un là một trong số các người con của Sa-un, (theo tục cha truyền con nối của thể chế quân chủ như các vương quốc chung quanh) nhưng Thiên Chúa lại chọn Đa-vít. Việc Đa-vít được tuyển chọn cho thấy rõ tư tưởng, đường lối và cách thức Thiên Chúa thực hiện khác xa và vượt hẳn đường lối, tư tưởng loài người. Đức Chúa phán với Sa-mu-en: “Đừng nhìn theo diện mạo và vóc dáng cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó(lối nói ám chỉ về Sa-un).Không phải chuyện người phàm nhìn thấy, vì người phàm nhìn theo đôi mắt, còn Đức Chúa nhìn tận đáy lòng.”(1Sm 16, 7). Như trong sách ngôn sứ I-sa-ia đã nói: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Như trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy”.( Is 55,8-9). Hoặc như Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Cô-rin-tô: “Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người.”( 1Cr 1,25). Dĩ nhiên, Đa-vít rất đa tài, bằng chứng là có các truyền thống cho thấy Đa-vít có tài chính trị, chinh chiến, đánh giặc(1Sm 17,54) và tài lỗi lạc về âm nhạc, đàn hát, rất được lòng vua(1 Sm 16,22-23)… Đa-vít là một vị vua đẹp lòng Thiên Chúa và toàn dân, đó là khi ông một lòng tin tưởng và trung thành với Đức Chúa. Nhưng ông cũng trở thành kẻ chiến bại vì phạm vào tội ngoại tình và giết người.
III/ Lời Sấm của tiên tri Na-than(2 Sm 7,1-17)
Lời Sấm của tiên tri Na-than(2 Sm 7,1-17) thường được nhắc đến trong các sách khác của Cựu Ước, nhất là trong các Thánh vịnh. Chẳng hạn Thánh vịnh nói về lòng nhân nghĩa của Thiên Chúa đối với Đa-vít, về giao ước giữa Thiên Chúa với Đa-vít(Tv 88, 89); Thánh vịnh 2 ca tụng về sứ điệp của Na-than… Có thể nói rằng, lời sấm của ngôn sứ Na-than (2 Sm 7,1-17) là đỉnh cao của thần học trong Cựu Ước và là chìa khóa mở vào Tân Ước đối với nền thần học Ki-tô giáo vì các lý do sau:
1/ Thiên Chúa luôn trung thành giữ lời hứa
Chính Thiên Chúa đã đưa con cái Ít-ra-en lên khỏi Ai-cập. Chính Thiên Chúa đã tuyển chọn các thủ lãnh chăn dắt Ít-ra-en thay Ngài. Chính Ngài đã “nay đây mai đó trong một cái lều và trong một nhà tạm…Trong suốt thời gian nay đây mai đó với toàn thể con cái Ít-ra-en” (2Sm7,6-7). Chính Thiên Chúa đã luôn ở với dân, Ngài dùng các ngôn sứ, thủ lành mà dẫn đưa dân qua các thời kỳ lịch sử. Cứ mỗi lần dân bất tuân, bỏ xa huấn lệnh, không tuân giữ lời cam kết, phạm tội trái mắt Ngài. Thế nhưng Thiên Chúa không nỡ từ bỏ, nhưng Ngài đã dùng các tiên tri mà sửa phạt, thức tỉnh. Khi dân biết lỗi và hối hận, Ngài lại thực hiện việc tuyển chọn và kết ước…Lời Sấm nơi môi miệng ngôn sứ Na-than mà Thiên Chúa dùng để nói với vua Đa-vít, rằng: “Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền…”. Đó là bằng chứng Thiên Chúa luôn trung thành giữ lời hứa cứu độ mà Ngài đã phán.
2/ Thiên Chúa mạc khải nơi và cách thức thờ phượng Ngài
Ý tưởng vua Đa-vít xây cất đền thờ cho Đức Chúa là rất tốt lành khi ông nói với Na-than: “Ông xem, tôi ở trong một ngôi nhà bằng bá hương, còn Hòm Bia Thiên Chúa thì ở giữa tấm vải”(2 Sm7,2). Ban đầu tiên tri Na-than cũng đã đồng ý việc này, nhưng Thiên Chúa lại muốn điều ngược lại. Ngài không chờ mong Đa-vít xây cho Ngài một ngôi nhà, mà chính Ngài sẽ xây “nhà” cho Đa-vít. Dưới đây là những lý do:
2.1/ Thiên Chúa không hề chờ mong Đa-vít xây cho Ngài một ngôi nhà
Thiên Chúa không cần Đa-vít xây cho Ngài một đền thờ vì: Thực ra công trình của con người không làm tăng thêm sự cao trọng cho Thiên Chúa. Bởi vì tất cả những gì con người làm cho Thiên Chúa thì có lợi cho con người chứ chẳng phải cho chính Thiên Chúa. Ở điểm này, ta liên tưởng đến lời Kinh Tiền Tụng đọc trong Thánh Lễ: “chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật à chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con”. Thực sự, Thiên Chúa Không hề đòi hỏi nơi con người phải chú trọng về hình thức bề ngoài. “Trong suốt thời gian nay đây mai đó với toàn thể con cái Ít-ra-en… rằng: Sao các ngươi không xây cho Ta một ngôi nhà bằng bá hương”( 2 Sm 7,6-7). Bởi vì, dù ở đâu đi nữa, nơi một cung điện ngọc ngà nguy nga hay chỉ là một chiếc lều tạm bợ thì vinh quang Ngài vẫn không hề bị cắt giảm. điều này được minh chứng khi Chúa Giêsu nhập thể làm người, Ngài đâu cần sinh ra trong một dinh thự giàu có, một cung điện nguy nga, nhưng chỉ là máng cỏ nghèo hèn “không chỗ ối đầu”(Mt 8,20). Đây cũng là điểm mà phần đông người Do Thái, (dân Ít-ra-en) cho đến giờ vẫn còn trông chờ Mê-si-a, vì họ không chấp nhận Chúa Giêsu.
2.2/ Con người không thể định vị, gắn chặt Thiên Chúa một nơi cố định theo ý mình
Ta thấy trong suốt chặng hành trình mà con cái Ít-ra-en từ núi Si-nai cho đến đất hứa, Hòm Bia Giao Ước như là một dấu chỉ hữu hình về sự hiện diện thường trực của Thiên Chúa luôn ở với dân. Hòm Bia ấy luôn ở dưới lều du mục và đi theo dân trong suốt những nơi mà dân di dời. Đây là lời sấm qua tiên tri Na Than: “Từ ngày Ta đưa con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập cho đến ngày hôm nay, Ta không hề ở trong một ngôi nhà, nhưng Ta đã nay đây mai đó trong một cái lều và trong một nhà tạm”. Nghĩa là nơi nào có dân, thì nơi đó Thiên Chúa hằng hiện diện, đồng hành để ở với dân, sẵn sàng lắng nghe dân kêu cầu. Ngài muốn dân Ngài cũng phải thờ phượng Ngài, tôn kính Ngài mọi nơi, mọi lúc và chỉ phụng thờ một mình Ngài mà thôi(x. Dnl 6,5; 30,6; Lc 4,8). Điều mà sau này trong Tân Ước, Chúa Giêsu trả lời cách rõ ràng cho người phụ nữ Sa-ma-ria:“ Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem”(Ga 4,21);Nhưng giờ đã đến –và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế”(Ga 4,23). Ngài cũng chẳng cần việc thờ kính Ngài bằng môi miệng, nhưng lòng trí thì xa Ngài, và bởi Thiên Chúa cũng chỉ “ muốn lòng nhân hơn là lễ tế”…
2.3/ Chính Thiên Chúa mới là người ban ân huệ chứ không phải con người.
Đa-vít đang ở trong vòng tay Thiên Chúa, chứ không phải ngược lại. Vì thế Chúa mới khẳng định cho ông biết “ngươi mà xây nhà cho Thiên Chúa sao”? Ngài nhắc nhỡ Đa-vít “Chính Ta đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân Ta là Ít-ra-en”( 2Sm 7,8). Điều quan trọng là Thánh ý Thiên Chúa chứ không phải việc xây cất đền thờ cho Ngài. Hơn nữa, điều Thiên Chúa muốn là Ngài sẽ định cư dân Ngài cách lâu bền: “Ta sẽ dọn cho Ít-ra-en dân Ta một chỗ; Ta sẽ trồng chúng xuống và chúng sẽ định cư ở đó, chúng sẽ không run sợ và quân gian ác sẽ không còn áp bức chúng như thuở ban đầu… Đức Chúa sẽ làm cho ngươi một “ngôi nhà”. Hình ảnh ngôi nhà có thể là dòng dõi của hoàng tộc Đa-vít nhưng cũng có thể là hình ảnh tiên trưng về Giáo Hội. Lời sấm: “Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi, một kẻ xuất từ lòng ngươi, và Ta sẽ làm cho vương quyền nó được vững bền” (2Sm 7,12).
3/ Từ đây Thiên Chúa chính thức xây dựng tương quan “Cha” – “Con”
Các vị vua kế vị Đa-vít mãi về sau đều được gọi là con của Thiên Chúa: “Đối với nó Ta sẽ là cha, đối với Ta nó sẽ là con” (2Sm 7,14). Trong nhiều nền văn hóa, vua được gọi là Thiên tử (Con trời). Thánh vịnh 2 đã nhắc đến: “Ngươi là con Ta, ngày hôm nay Ta đã sinh ra con”.  Lời này được chính Chúa Cha nói lại trong ngày Chúa Giêsu chịu phép rửa: “và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng : Con là Con của Cha ; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con”( Lc 3,22) và được nhắc lại trong (Cv 13,33; Dt 1,5; 5,5). Nghĩa là từ nay, vua sẽ đóng vai trò trung gian giữa Thiên Chúa và dân Ngài như Mô-sê trước đó. Với tư cách là con riêng của Thiên Chúa, vua sẽ đại diện Thiên Chúa giữa dân và cũng là đại diện dân chúng trước mặt Thiên Chúa. Qua vua, dân sẽ thấy dấu hiệu rõ ràng về sự bảo trợ của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã cam kết bằng lời thề, để từ nay Đa-vít không còn phải sợ Thiên Chúa vì Ngài là Cha. Nhưng Ngài đòi buộc một sự tuân phục khi Thiên Chúa nói: “khi nó phạm tội, Ta sẽ sửa phạt nó bằng roi của người phàm”. Cứ mỗi lần có một vua thuộc dòng dõi Đa-vít được tấn phong sau này, sẽ là dịp để ăn mừng, vì hoàng tử ấy, vị vua ấy được gần Thiên Chúa, và biết đâu đó là Đấng sẽ chính thức thực hiện lời hứa cách tròn đầy, là Đấng Mê-sia mà dân đang ngóng đợi. Cứ như thế mà dân luôn trong tình trạng ngóng đợi Đấng Cứu Thế, Đấng là Mê-sia đóng vai trò quyết định trong lịch sử cứu độ, là vị Thiên sai có vương quyền, uy lực thực sự (theo cách hiểu của loài người). Có lẽ vì thế nên khi Chúa Giêsu đến, không phải trong vương quyền, mà chỉ là thân phận tôi tớ đau khổ, nên người Do Thái đã quyết loại trừ Đấng ấy.
Tương quan “Cha” – “Con” được mạc khải cách tròn đầy khi Con thiên Chúa là Đấng Mêsia nhập thể làm Người. Thánh Phaolô đã nói: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử”(Gl 4,4-5). Thánh Irênê cũng nói: “Thiên Chúa làm người là để con người được làm con Thiên Chúa”.

4/ Đấng cứu độ sẽ xuất thân từ hoàng tộc Đa-vít
Đây là lời sấm: “ Trước mặt Ta, nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ muôn đời bền vững, và ngai của ngươi sẽ được bền vững đến muôn đời”( 2Sm 7, 16). Một vương quyền tồn tại muôn đời chỉ có trong Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa. Hình ảnh này chắc chắn chắn nói đến Đấng Mê-si-a, một vương quyền(vị vua vĩ đại) sẽ thống lĩnh và chăn dắt Ít-ra-en đến muôn đời. Như trong sách Tin mừng Lu-ca ghi lại biến cố truyền tin cho Đức Mẹ, diễn tả lời của Sứ thần nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giê su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,33).
IV/ Phần Kết
Thực sự Lời Sấm của ngôn sứ Na-than là đỉnh cao của thần học trong Cựu Ước. Qua nhân vật Đa-vít, chương trình cứu độ của Thiên Chúa đã vạch ra tiến thêm một bước. Lời hứa của Thiên Chúa mạc khải rõ ràng hơn, mặc dù sự xuất hiện của từ “Mê-si-a” (Đấng được xức dầu) đã có ngay khi nền quân chủ ra đời dưới thời vua Sa-un, nhưng chỉ trong Lời Sấm của Na-than nói về dòng dõi “nhà” mới thực sự giúp người ta nghĩ về một nền quân chủ vững bền, là bảo chứng hòa bình thịnh trị cho con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Hơn nữa, trong Lời Sấm có nói đến lời hứa với vua Đa-vít về một vị vua sẽ cai trị muôn dân đến muôn đời. Đó mới thực sự là vương quyền của Đấng Mê-si-a vĩ đại. Tuy nhiên, đối với Ít-ra-en, Thiên Chúa vẫn là vị vua đích thực của họ. Bằng chứng là việc tiên tri Sa-mu-en đã phải trải qua tâm trạng khó xử khi phải chấp nhận xức dầu cho một người làm vua Ít-ra-en, và chính Thiên Chúa cũng đã chẳng hề muốn điều đó(x. 1Sm 8, 6-7).
Lời Sấm ấy như chìa khóa mở vào Tân Ước cho nền thần học ki-tô giáo ở các điểm phân tích trên. Làm toát lên hình ảnh về Đấng Cứu Thế có vương quyền vĩnh cửu; một Giáo Hội được thiết lập qua hình ảnh “ ngôi nhà” Thiên Chúa hứa cho dòng dõi Đa-vít; đến thời người ta sẽ tôn kính Thiên Chúa khắp mọi nơi, trong thần khí và sự thật…
Chúng ta biết, ơn gọi là một hồng ân phát xuất từ nơi Thiên Chúa: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em”(Ga 15,16). Con người chẳng là gì trước mặt Chúa, Ngài chọn gọi ai đó chỉ vì Ngài muốn và Ngài yêu thương mà thôi. Trước mặt Chúa, hết mọi người đều bất xứng, vì tất cả đều bởi Chúa và do Chúa. Ngay chính sự hiện hữu của mỗi người trên đời này cũng bởi tình yêu của Thiên Chúa. Tự bản thân con người vốn chẳng là gì, vì thế điều mà người môn đệ theo Chúa cần ý thức là nổ lực cộng tác với ơn Chúa để thánh hóa bản thân hằng ngày. Khiêm tốn để Chúa làm chủ cuộc đời, để Ngài hướng dẫn và huấn luyện.
Có nhiều linh mục khởi sự đời sống tông đồ rất thành công, thành công trong đời sống mục vụ, nhất là việc xây cất nhà thờ, xây dựng các cơ sở vật chất cũng như các hội đoàn của giáo xứ… nhưng rồi dần dà mất đi sự bình an, một vài linh mục đã rơi vào những yếu đuối và đêm đen cuộc đời. Có thể những linh mục ấy đã rơi vào cám dỗ “xây dựng hình tượng mình” hơn là xây cất đền thờ Thiên Chúa nơi tâm hồn tín hữu. Khi có được những thành công thì bị cuốn hút và quy hướng về mình hơn về Thiên Chúa, chú tâm làm rạng danh mình hơn để cho danh Thiên Chúa cả sáng.
Mặc dù Đa-vít là vị vua đạo đức, tài giỏi nhưng ông cũng chỉ là một con người, có thể sau những thành công ông không thể tránh khỏi bị cám dỗ bày tỏ quyền uy sức mạnh của mình. Đa-vít có thể bị lóa mắt vì những thành công rực rỡ trên đường đời. Phải chăng Thiên Chúa biết trước rồi đây Đa-vít sẽ làm sự trái mắt Ngài? Thậm chí, ý định xây dựng Thánh điện kính Đức Chúa cũng là một cách thức để ông chứng tỏ mình cho dân Chúa. Hay có thể ông muốn biểu dương sức mạnh của mình với các đế vương chung quanh để được tôn trọng? Còn Thiên Chúa lại muốn các thủ lãnh mà Ngài đặt làm vua, mục tử (như các môn đệ thời Tân ước Ngài chọn) là trở nên tôi tớ của dân “để phục vụ chứ không phải để được người ta phục vụ”(Mt 20,28). Môn đệ theo Chúa phải luôn ý thức rằng mọi việc mình có thể thực hiện được, hay mọi thành công dù lớn hay nhỏ đều phát xuất từ Thiên Chúa chứ không phải từ nơi mình. Để rồi không bao giờ tỏ ra tự cao, tự đại, nhưng biết khiêm tốn bày tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa vì mọi ân huệ Ngài ban. Sau khi hoàn tất việc đã làm thì hãy khiêm tốn nói “con chỉ là đầy tớ vô dụng, con đã chỉ làm việc bổn phận mà thôi” (x. Lc 17,10).
Đa-vít dù được lòng Chúa và thành công đến đâu thì vẫn không thể qua ải mỹ nhân. Người môn đệ trong thời đại hôm nay càng phải thức tỉnh và biết đề cao cảnh giác với cám dỗ của tính xác thịt, bởi ai cũng thừa biết được sự yếu đuối và quá mỏng giòn nơi thân xác mình. Mỹ nhân kế thường bị kẻ xấu sử dụng đối với những người thiếu sự đề cao cảnh giác, nhất là với những ai đang trên bước đường thành công cách nào đó. Người môn đệ muốn luôn đứng vững và trung thành trên con đường theo Chúa, cần có một đời sống nội tâm thâm hậu, chuyên cần với việc cầu nguyện, tuy nhiên phải biết rằng chính Thiên Chúa không bao giờ muốn con người gắn chặt Ngài một chỗ và bắt Thiên Chúa hành động theo ý riêng của mình. Cầu nguyện là để xin Chúa chỉ cho biết mình cần phải lắng nghe và thực thi thánh ý Ngài như thế nào, chứ không phải nhất nhất bắt Chúa hành động theo ý riềng ta.

Jos. Magnificat Lx k12

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét