Dẫn nhập
Đau
khổ và sự chết là hậu quả của tội lỗi nhân loại, là kết quả sự
dữ mà Thiên Chúa ghê tởm. Như thế, đau khổ và cái chết của Đức Kitô
cũng chỉ do tội lỗi của nhân loại mà ra. Tuy nhiên, cũng chính trong
đau khổ và tội lỗi ấy, có một loài hoa rất đẹp mọc lên. Loài hoa đó
mang tên là hiến dâng và vâng phục. Đó chính là Đức Kitô, Mặt Trời
Công Chính, người tôi tớ đau khổ, người công chính đau khổ là Chiên
vượt qua, nhờ sự hy sinh dâng mình cho Thiên Chúa, bằng lòng chịu chết
để đền thay tội lỗi nhân loại. Hiến tế Thập Giá là ngôn ngữ diễn tả tình
yêu sống động và tuyệt đối của Chúa Giêsu đối với Thiên Chúa và nhân loại. Hy
tế này mang hai chiều kích liên kết chặt chẽ với nhau: chiều kích thứ nhất liên
quan đến mối tương giao với Thiên Chúa: đó là sự tuân phục, sự gắn bó toàn thân
với Thánh Ý Thiên Chúa; chiều kích thứ hai liên quan đến loài người; đó là sự
trao ban toàn thân, biểu lộ tình liên đới huynh đệ. Công Đồng Êphêsô năm 431
quả quyết: “Đức Kitô tự hiến mình hy sinh cho ta trong một hy tế ngào
ngạt hương thơm dâng lên Thiên Chúa, Chúa của Ngài” Còn công đồng
Tridentino thì xác định: “Đức Kitô tự ý hiến thân đổ máu ra một lần
trên bàn thờ thập giá”... Hy tế thập giá có rất nhiều ý nghĩa, mang
nhiều chiều kích thần học sâu xa, dù đã có không ít tác giả và tác
phẩm từ cổ chí kim suy tư về mầu nhiệm thập giá, nhưng không sách vở
nào viết hết. Dù cho cả nhân loại suy tư, viết lách từ rạng đông của
ngày sáng tạo cho đến chiều tà của cánh ngày chung, vẫn không thể
nào suy cho cùng. Bởi vậy, trong bài viết này, con chỉ hy vọng phác
họa và trình bày cách đơn giản nhất, ngắn gọn nhất theo sự hiểu
biết hạn hẹp của mình, để coi đó như là một chút cảm nghiệm làm
giàu cho hành trang sống ơn gọi của mình.
1/ Cái chết của Đức Giêsu trong sự thinh lặng
của Chúa Cha
Khởi
đầu cho chuỗi dài cơn đau đớn khổ giá của Chúa Giêsu có lẽ là sự
bỏ rơi của các môn đệ Ngài. Các môn đệ được Ngài yêu thương, tuyển
chọn và huấn luyện. Các ông đã được chứng kiến tận mắt bao nhiêu
điềm thiêng dấu lạ; bao nhiều đắng cay ngọt bùi và vinh quang đều
được chia sẻ cùng thầy mình. Thế mà trong giờ khắc thầy sắp bị đưa
đi thì họ bỏ rơi, chạy trốn hết, chỉ còn vài kẻ trong họ theo Ngài
xa xa. Sự bỏ mặc đó manh nha ngấm ngầm, ngay khi thầy trò đi cầu
nguyện tại Vườn Cây Dầu, họ thiếp ngủ, chẳng màng chi đến chuyện
cầu nguyện để có sức mạnh. Họ chỉ biết vui sướng hơn hở khi thầy
mình được tôn vinh, nhưng khi gian nan đến, họ bắt đầu quên hết mọi
thứ. Mới đó không xa, họ được tận mắt chứng kiến vinh quang của Thầy
mình, nhất là những người môn đệ thân tín được đặc cách cho thấy trước
về vinh quang phục sinh trong biến cố núi Tabore(x. Mt 17,1-9).
Môn
đệ thì bỏ rơi, còn về phía Thiên Chúa Cha thì sao? Nhiều người thắc
mắc tại sao Thiên Chúa Cha im lặng khi Đức Giêsu chịu đóng đinh và chết
tắc tưởi trên thánh giá, nếu đích thực Đức Giêsu là Con Ngài. Ta
biết rõ là ý định Thiên Chúa Cha mong muốn sớm thực hiện là cứu độ
nhân loại. Cũng chính điều này mà Chúa Con nhập thể và nhập thế. Sự
thinh lặng của Chúa Cha không phải là một sự lãng quên, bỏ mặc nhưng
đó là một cách thế thể hiện tình yêu tuyệt đối của Ngài dành cho
nhân loại tội lỗi. Quả thực, lời cầu nguyện của Đức Giêsu với Chúa
Cha để xin Ngài can thiệp, hầu thay đổi cuộc thương khó, chính là để Đức
Giêsu bày tỏ tương quan với Chúa Cha. Ngài thừa biết, tương quan Ngài
với Chúa Cha sẽ là sức mạnh để Ngài sống hoàn cảnh khốn quẫn nhân
loại này[1]. Đức
Giêsu đón nhận sự thương khó trong tương quan với Chúa Cha và Thánh
Thần(x. Ga 16,32), đó là cách Ngài bày tỏ cho nhân loại thấy
bằng chứng tình yêu tuyệt đối mà Thiên Chúa yêu con người (x. Ga
3,16-21). Như thế, Đức Giêsu đã làm cho mầu nhiệm thương khó thành sự
chiến thắng. Ngài là một người thật, nên Ngài không biết trước chắc
chắn tương lai, nhưng Ngài yêu mến Chúa Cha và biết Chúa Cha yêu mến
Ngài, nên Ngài đã hoàn toàn phó thác, đặt hết mọi sự cho Chúa Cha. Chính
cái nghịch lý dưới chân thập giá, khi Đức Giêsu tắt thở, việc Chúa
Cha im lặng nhưng Ngài đặt để vào môi miệng của một người dân ngoại
lời tuyên xưng mạnh mẽ: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa”. Cái
nghịch lý này chính là công trình vĩ đại mà Chúa Cha thực hiện, để
mạc khải tình yêu. Sự thinh lặng của Chúa Cha là một sự thinh lặng
có tính cứu độ, một sự thinh lặng vì tình yêu cứu độ phổ quát. Từ
đây, ơn cứu độ không chỉ được hiểu trong sự dành riêng cho dân tộc Do
Thái, nhưng là cho cả những người dân ngoại nữa. Ai tuyên xưng và đón
nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa cách minh nhiên hay mặc nhiên... đều
được quyền thừa hưởng ơn cứu độ.
2/
Cái chết đích thật của Đức Giêsu: tắt thở trên thánh giá
Đức
Giêsu Ktô đã vì tội lỗi nhân loại mà kiên trì đương đầu với cái
chết. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại, giải thoát Người
khỏi những đau khổ của cái chết (x.
Cv 2,24). Thánh Phêrô còn nói: “Đức Kitô đã mang tội lỗi của chúng
ta vào thân thể mà đưa lên cây thập giá (x.1Pr 2,24). Ngài là Đấng không hề phạm tội “chẳng ai thấy
miệng Người nói một lời gian dối”(1 Pr 2,22), nhưng vì chúng ta, để
chúng ta được sống trong Người mà Người đã chịu đựng tất cả...
Giáo
Hội luôn tin nhận rằng, Đức Giêsu đã chết thật, Ngài đã tắt thở trên
cây thánh giá. Giờ Ngài bị treo trên thập giá, kéo dài từ giữa trưa
tới ba giờ chiều, rồi tắt thở:“Ngài trao thần khí”(x. Lc 23,46). Tin mừng tường thuật
cảnh tượng rùng rợn giờ Chúa tắt thở trên thánh giá, rằng “từ giờ
thứ sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất, mãi đến giờ thứ chín… giờ
Chúa tắt thở, trao Thần Khí thì bức màn trong đền thờ xé ra làm hai
từ trên xuống dưới…(x. Mc 15,
33-41; Lc 23,44-49; Ga 19, 28-30). Thánh Gioan diễn tả
giờ Chúa Giêsu chịu chết, chính là giờ Người được siêu tôn, được giương cao lên
để lôi kéo mọi người về với mình (Ga 12,32). Chúng ta biết, người tuyên xưng
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa ngay dưới chân thập giá không ai khác, mà
là viên đại đội trưởng, một người ngoại giáo. Khi ghi lại những chi
tiết này, Kinh Thánh muốn trình bày một Đức Giêsu của Thánh Kinh như là một
Đức Kitô đích thực, là một “Đức Kitô lịch sử” hoàn toàn theo nghĩa đen của
hạn từ này. Chính Đức Giêsu đã hoàn tất mạc khải nơi mầu nhiệm thập
giá. Lịch sử đã chứng mình cho thấy, một nghịch lý của Kitô giáo,
một mầu nhiệm khó hiểu rằng: ai lại đi tin vào một Đấng bị lột
trần, đóng đinh trên cây khổ giá. Theo thánh Phaolô Thập giá là sự điên rồ
đối với những kẻ hư mất, nhưng đối với những người được cứu độ lại là sức mạnh
của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa sẽ phá huỷ sự khôn ngoan, chê bỏ sự thông thái
của nhân loại, chính Ngài là Đấng làm cho sự khôn ngoan của thế gian này
trở nên ngu dại. Vì Thiên Chúa đã muốn dùng sự điên rồ của lời rao giảng để cứu
độ những kẻ tin... Đối với những người được kêu gọi, dầu là Do-thái hay Hy-lạp,
thì chính Chúa Kitô là quyền năng và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì
chính sự điên dại, yếu đuối của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự khôn ngoan, sự mạnh
mẽ của loài người(x. 1Cr 1, 17-25).
Tại
sao Chúa lại phải chịu chết? lịch sử ghi lại, đặc biệt thánh sử
Mác cô, cho ta thấy Chúa Giêsu bị buộc tội và rất nhiều người làm
chứng gian để khép tội Ngài tại phiên tòa Thượng Hội Đồng Do Thái (Mc
14,58). Vị thượng tế thì buộc tội Ngài nói phạm thượng, vì dám
tuyên bố mình là Đấng Mêsia; Một số khác chế diễu và đòi Ngài nói
tiên tri… Nhưng cái chết đích thực của Đức Giêsu là để nên trọn lễ
tế dâng lên Thiên Chúa Cha hầu cứu độ nhân loại tội lối.
3/ Hy lễ Thánh giá có tính đền bù
Lịch sử cứu độ là một chuỗi
dài liên tục của sự hy sinh đền tội được ghi lại cách cụ thể trong
chính Lời Mạc Khải của Thiên Chúa là Kinh Thánh. Trong Cựu Ước,
những hy tế được diễn tả rõ nhất là hy tế của Aben, của Nôe, của
Ápraham, Môsê... Những hy tế này được ghi lại với những nghi lễ rất
đơn giản, chẳng hạn như dựng bàn thờ, kêu tên thần thánh, dâng súc
vật hoặc các sản phẩm con người làm ra. Phụng vụ không có chỗ nhất
định, thừa tác viên cũng không có tính chuyên môn[2].
Hy
tế của Đức Kitô đã bắt đầu với việc Nhập Thể (Dt 10, 5-7). Người bước vào trần
gian để thi hành ý muốn của Chúa Cha. Hy tế ấy trải dài suốt cuộc đời Người tại
thế và được biểu lộ cách hoàn hảo qua cái chết trên Thập Giá. Thánh Phaolô
quả quyết: “Đức Giêsu Ktô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất
thiết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,… chết trên cây thập tự” (Pl
2,6-8). Đời sống của Đức Giêsu nhục nhã nhiều hơn khải hoàn,
thất bại nhiều hơn thành công, đau khổ nhiều hơn vui sướng. Như thế cuộc sống của
Đức Giêsu làm nổi bật sự phản loạn của con người chống lại Thiên Chúa và sự phẫn
nộ của Thiên Chúa đối với con người. Nhưng đồng thời cuộc sống ấy cũng để cho
Thiên Chúa biểu lộ tình thương của Ngài, “lòng thương xót đảm nhận định mệnh của
con người, sự tủi nhục, những thất bại và những đau khổ của con người để giải
thoát con người[3].
Việc Đức Giêsu đã chịu đau khổ, đã lột mặt nạ sự dữ, vạch trần bản chất của sự
phản loạn của con người chống lại Thiên Chúa. Chính ở trong con người bị lên
án, bị trừng phạt, mà thân phận nhân loại trước mặt Thiên Chúa được phơi bày
ra ánh sáng, bày tỏ mầu nhiệm hai bản tính của Ngôi Hai.
Chúng
ta biết rằng, khi đứng trước chọn lựa thập giá, Chúa Giêsu hoàn toàn
có tự do, nhưng tại sao Ngài lại đón nhận thập giá? Ngài biết rằng
Ngài sẽ bị nộp, bị đánh đòn, bị giết chết. Một mặt, Ngài là một
con người hoàn toàn, Ngài cũng biết đau, biết sợ, thậm chí khóc
lóc. Sự dằn lòng của Ngài trong Vườn Cây Dầu, mô hôi máu chảy ra đã
minh chứng cho nỗi sợ, lo lắng của Ngài trước thập giá. Thế nhưng
Ngài vẫn xin vâng theo thánh ý Chúa Cha(x. Lc 22,42). Như vậy, nếu có cất chén cũng là ý muốn của Chúa Cha
và Chúa Kitô đã biết từ trước Chúa Cha trao chén đắng cho ngài và ngài xin vâng
trọn vẹn. Lời cầu nguyện đầu hoàn toàn phó thác vào Thánh ý Chúa Cha, không ỷ
vào sức riêng của mình, nhưng bản lĩnh rất vững mạnh: “Chính tôi tự ý thí mạng
sống mình và có quyền lấy lại, đó là lệnh của Cha tôi”(Ga 10,18), và lời
nguyện sau “vâng phục trọn vẹn ý Chúa Cha”(x.
Ga 4,34) vì yêu mến Chúa Cha(Ga 10,17). Hai ý nguyện làm nổi bật tình yêu
có tính vâng phục và tận hiến.
4/
Bước theo Chúa là chấp nhận theo con đường khổ giá
Nói
đến Thập Giá của Chúa là nói đến chính Chúa Giêsu chịu đóng đinh, nói đến cuộc
Khổ Nạn của Chúa mà mỗi người Kitô hữu đều thông phần khi chịu phép rửa: “Tôi sống, những không còn phải là tôi, mà là
Đức Kitô sống trong tôi…Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl
2,20). Người Kitô hữu là con người của
thứ Sáu Tuần Thánh và Chúa Nhật Phục Sinh. Con đường của người Kitô hữu, của
Hội Thánh chúng ta không là một giấc mơ về Đấng Mesia trần thế. Vị Thiên Chúa đầy nhân tính, Chúa Giêsu của
các sách Tin Mừng loại trừ hình ảnh Đấng Messia theo mơ ước quyền năng của con
người[4].
Thập giá đảo lộn các ước mơ của con người, những ước mơ bắt đầu bằng tội của
Eva. Có lẽ đau khổ và sự dữ là một phần trong đời sống của con
người, nó gắn bó không tách rời, trừ khi đã chết đi. Thần học giải
thích nguồn gốc đau khổ là do tội lỗi con người. Những đau khổ trong
đời gắn liền với tự nhiên, cả đau khổ thể lý, tâm sinh lý hay luân
lý… nhìn thấy nó đến với mình, với tha nhân, với thế giới mà con
người không cưỡng lại được, chỉ biết dùng đức tin đón nhận…
Theo
nhà thần học Karl Rahner, muốn biết Thiên Chúa là ai, phải quỳ dưới chân thập
giá và cùng lúc hướng về cánh cửa mà Phục Sinh mở ra[5].
Tìm Thiên Chúa nơi nào khác là tư
duy theo kiểu loài người, chứ không theo đường lối của Thiên Chúa. Thập
Giá Chúa Kitô hết sức quan trọng, theo thánh Máccô, huyền nhiệm về Đấng Cứu Thế
chỉ được bộc lộ rõ rệt khi Người bị chết treo trên thập giá với lời tuyên xưng
của viên đại đội trưởng: “Quả thực
người này là Con Thiên Chúa”(Mc 15,39). Con đường dẫn đến cảm nghiệm tâm
linh không thể tách rời khỏi thập giá. Theo con đường thập giá có nghĩa là từ
bỏ bản thân(Mc 8,35), sống liên đới với tha nhân, bán tài sản để phân phát cho
người nghèo (Mc 10,21), phục vụ (Mc 10,45) hoặc như Gia kêu trong (Lc 19,1-10)
là dẫn chứng cụ thể.
5/
Cơn cám dỗ thoát khỏi thập giá
Đây
là cơn cám dỗ thường xuyên đối với chúng ta hôm nay, là tìm kiếm một Đức Giêsu
không thập giá, là muốn một thứ “Kitô Giáo” dễ dãi và hợp thời hơn, là khát
khao một thứ “Tin Mừng” không nhuốm nước mắt. Tin theo Chúa Kitô thì phải
cùng bước đi, cùng vác thánh giá lên đỉnh đồi, để cùng chết với
Ngài, hầu được mai táng và lãnh nhận diễm phúc phục sinh. Bởi Chúa
là Chúa tể muôn loài mà còn chịu muôn khổ hình, chịu sỉ vả nhiếc
nhóc nhạo cười, chịu đòn vót rồi bị giết chết sau đó Ngài mới
phục sinh (qua khổ giá mới đến vinh quang). Đó chính là con đường mà
Chúa đã đi qua.
Trong
cuộc đời trần thế, người Kitô hữu cũng giống như Phêrô, nhiều khi lại muốn
kéo Chúa Giêsu ra ngoài và can ngăn về chuyện Ngài muốn tuyên bố rõ ràng về
thập giá, và rồi Chúa quở trách ngay là “satan”(x. Mt 16, 23). Cần phải nhận rằng, tin mừng của Chúa Giêsu là một
thứ tin mừng khổ luỵ, nghĩa là không phải chỉ có rao giảng mà cốt yếu phải
thực hành, làm chứng (tử đạo trong cuộc sống hằng ngày, từng giây). Theo
Chúa đồng nghĩa với từ bỏ mình, chết đi cho những vị kỷ bản thân để
Chân Lý và Tình Yêu được tỏ hiện. Nếu không như thế, thì Tin mừng trở nên mơ
hồ, thập giá trở thành món đồ trang sức, và đạo lý cứu độ biến thành mớ lý
thuyết để che chắn và làm bình phong cho một số hạng người nào đó được yên thân
an vị. Người tín hữu phải biết rằng, mình luôn bị cám dỗ tránh né
hay xuống khỏi thập giá cuộc đời, vì chính Chúa còn bị cám dỗ
xuống khỏi đó(x. Mt 27,40).
6/
Người tín hữu sống đời hy tế theo gương Chúa
Người
Kitô hữu được mời gọi bước theo Đức Kitô một cách dứt
khoát và quyết liệt, để sống đời hy tế theo gương Đấng Cứu Độ của
mình. Đó cũng là cách chứng tỏ mình đang thực hiện một cuộc trở về liên
tục, vì khi khám phá ra những điều kiện, những yêu sách và những đòi hỏi khác
nhau của việc theo Đức Kitô, nhờ đó mà xây dựng được mối tương giao giữa
mình với Đấng mà mình đang bước theo, hầu kiện toàn tương quan ấy một cách bền
vững hơn. Bước theo Chúa là đi theo con đường khổ nạn của Thầy. Yêu mến Đức
Giêsu và bước theo Ngài, góp phần làm dịu các nỗi khổ đau của loài người, là
đấu tranh bằng lời nói và cuộc sống, chống mọi nguồn gốc của sự dữ, của khổ đau.
Thánh Giá Cứu Độ của Chúa Giêsu đòi hỏi giải phóng khỏi mọi thứ thập ác của tội
lỗi và sự chết. Bước theo Ngài là biến các thập giá hằng ngày thành môi trường niềm vui sự phục sinh,
cho tình yêu và công lý. Chỉ khi tự nguyện cởi bỏ con người cũ, loại trừ
khỏi lòng mình những khát vọng tư lợi, vị kỷ, để mặc lấy con người mới nơi
Đức Kitô phục sinh, ta mới thực sự làm cho mình nên giàu có trong ân sủng.
Sách
gương Chúa Giêsu có viết câu: “nếu ta cố tìm một Đức Giêsu không thập giá,
ta sẽ gặp thập giá mà không có Đức Giêsu”. Sự khôn ngoan và sức mạnh của thập
giá chỉ được hiểu khi người ta đảm nhận và trực tiếp kinh nghiệm nó một cách
sâu xa, để từ đó không còn nhìn thập giá như một chướng ngại, nhưng là một cơ
hội và cách thế thể hiện chính mình một cách cao độ nhất trong Đức Kitô. Để như Phaolô, không muốn biết đến chuyện
gì khác ngoài “Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá”(1Cr 2,2) và mang trong thân
mình cuộc tử nạn của Chúa Giêsu(2Cr 4,10), và “để được đồng hình đồng dạng với
sự chết của Ngài, để làm sao đạt tới ơn Phục Sinh từ cõi chết(Pl 3,10-11).
Thánh
giá là tiêu chuẩn để chọn lựa và quyết định trong mọi trường hợp, chính trong
tâm thái này mà tâm hồn ta vẫn luôn được bình an và thanh thoát cả trong những
nỗi ngặt nghèo. Nhưng rồi trong thực tế, cuộc sống nhiều khi cũng làm ta giằng
co và nhức nhối khôn nguôi do những nỗi trăn trở tuỳ chính tâm hồn mình, giữa
cái muốn mà không muốn, giữa cái làm mà không làm, giữa cái cho đi và khước từ,
giữa cái dấn thân và đòi hỏi, giữa sống và cái chết… Có rất nhiều kẻ muốn lên thiên đàng với Chúa Giêsu, nhưng rất ít kẻ
muốn vác thánh giá với Người; Nhiều kẻ ước ao được ơn an ủi của Người, nhưng ít
kẻ muốn chịu thử thách với Người; Nhiều kẻ muốn dự tiệc với Người, nhưng ít kẻ
muốn chịu thiếu thốn với Người; Nhiều kẻ muốn vui hưởng với Người, nhưng ít kẻ
sẵn sàng chịu sự gì khó với Người; Nhiều kẻ muốn theo Chúa Giêsu đến bàn tiệc
bẻ bánh, nhưng ít kẻ muốn uống chén đắng với Người; Nhiều kẻ tôn sùng các phép
lạ của Người, nhưng ít kẻ muốn chịu sỉ nhục với Người[6]. Tựa
như các môn đệ khi Chúa bị bắt thì bỏ chạy hết, Phêrô cũng chỉ đi
theo xa xa mà thôi…
Một
vài điểm tóm kết
Sự sợ hãi những gì là đau khổ nơi tâm hồn cũng như
thể xác khiến người ta e ngại trước những hi sinh lâu dài, nhưng nếu tin
Thiên Chúa là tình yêu thì chính qua những đau khổ đó, Ngài luôn trao
ban điều tốt nhất cho những ai yêu mến, tin tưởng phó thác cậy trông vào
Ngài. Kinh nghiệm Thánh Phaolô cho thấy, không bao giờ Thiên Chúa gửi thánh giá
quá sức một ai. Thiên Chúa luôn luôn đồng hành với nhân loại ngay cả khi họ không
cảm nhận được Ngài. Qua đau khổ, cái chết của
Chúa, Ngài muốn dạy cho ta ý thức những giới hạn của mình, để biết can
đảm chấp nhận và cố gắng sửa mình trong hân hoan. Thiên Chúa có sẵn những
kế hoạch tuyệt vời cho từng con người. Nếu ai biết vui vẻ đón nhận thập
giá và biết dâng lên Thiên Chúa những bất toàn, khổ đau trong đời để tôn
vinh thập giá của Chúa, người đó sẽ gặt hái được hạnh phúc đích thực
cả đời này lẫn đời sau.
Lời
mời gọi say mê và chiêm ngắm thập giá Chúa Ktiô để góp phần tôn vinh tình
thương của Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Trong đời sống,
người tín hữu phải luôn quả quyết như Thánh Phaolô: “Tôi sẽ cùng chịu
đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá. Tôi sống nhưng không còn là tôi…Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl
2,19-20). Bằng cuộc sống mỗi ngày, vui
buồn sướng khổ, biến cố nhỏ to trong cuộc đời Kitô hữu đều là ân sủng
hay dấu chỉ đặc biệt của lòng thương xót Thiên Chúa gửi đến để
thánh hóa họ. Điều quan trọng là biết nhận ra, đón lấy bằng niềm
tin yêu hy vọng hay không. Ơn cứu độ Chúa hệ tại chỗ ta biết đón nhận
thập giá và làm cho thập giá trổ sinh hoa trái. Tâm tình phó thác tuyệt
đối vào lòng thương xót của Thiên Chúa, để xin Ngài thương xót bản thân, gia
đình, giáo xứ và toàn thế giới đó còn là trách nhiệm mỗi tín hữu.
Jos. Magnificat LX. K12
[1]
Xem. JB. Nguyễn Khắc Bá, Giáo trình Kitô học, (ĐCV Vinh Thanh:
Vinh Thanh, 2015),63.
[2]
X. Linh mục Fx. Tân Yên, Kitô Học, (Sài Gòn: Nxb Phương Đông,
2013), 205.
[3]
Xem. http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/THANHOC/DucKyto/Chuong7.htm. Truy cập ngày 20/12/2015.
[4]
Ibidem, 207.
[5]Karl Rahner, Phaolô Nguyễn
Luật Khoa, ofm, n.d. Nhân học Kitô,(HCM:
Nxb Từ điển bách khoa 2010), 144
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét