Thứ Ba, 4 tháng 10, 2016

Phải chăng Đức Giêsu đến để gây chia rẽ’ (Mt 10, 34-36)


Bài làm:
Giáo lý và Kinh Thánh cho ta biết rằng: Tội lỗi là nguyên nhân tất cả mọi rắc rối, gốc rễ của mọi nỗi buồn chán và bất an trong cuộc đời con người. Tội lỗi phá hủy sự hòa hợp trong nội tại con người và cắt đứt tình trạng ân sủng, phá vở mối dây liên hiệp giữa con người với Thiên Chúa. Hậu quả lớn lao của tội lỗi là đem đến sự chết. Khi Đức Kitô xuất hiện, Ngài là hiện thân của sự sống, là Đấng thông ban ơn cứu độ, Ngài đến để hủy diệt sự chết và tội lỗi, đến để đem bình an, đến kiện toàn và cứu những gì đã mất… Thế nhưng tại sao đoạn Tin Mừng(Mt 10, 34-36) lại làm ta có cảm tưởng về một nghịch lý, tương phản với giáo lý và sứ điệp Tin mừng đích thực của Chúa. Tại sao Chúa Giêsu không đem hòa bình mà lại đem chiến tranh, chia rẽ? Có phải vậy không? Chúng ta thử phân tích, tìm hiểu ý nghĩa đoạn Tin Mừng để biết ý nghĩa và thông điệp mà Chúa Giêsu muốn trình bày ở đây đích thực là gì?
Bối cảnh của đoạn Tin mừng: Nền móng luân thường đạo lý từ cổ chí kim đều bắt nguồn từ gia đình, vì gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên, là xã hội thu nhỏ, và gọi là Hội Thánh tại gia. Thế nhưng, giữa xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, có quá nhiều lề luật, bất công đè nặng con người, làm cho họ ngày càng trở nên xa rời Thiên Chúa. Đặc biệt, giới lãnh đạo đều là tầng lớp giả hình, gian ác, kiểu mồ mã tô vôi …. Đức Giêsu đến để vạch trần bộ mặt ấy, Ngài dạy những điều đi ngược lại gia đình, xã hội thời ấy dạy. Ngài tuyên bố: “Ta đến không phải hủy bỏ lề luật, nhưng để kiện toàn”; “để cứu những gì đã hư mất”... Vì thế, những ai theo Ngài là theo trường phái chống đối lại nếp sống và văn hóa của cái cũ, chống đối xã hội nặng nề bởi luật cũ. Thứ luật “mắt đến mắt, răng đền răng” theo kiểu ‘ăn miếng trả miếng’. Ngài đem đến giới luật yêu thương và tha thứ, đến nỗi yêu luôn cả kẻ thù của mình. Hơn thế, Ngài chữa bệnh nhân trong ngày Sabat, lên án cách thẳng thừng biệt phái, luật sĩ và Pha-ri-siêu… đưa sự thật đẩy lui sự dối, đưa ánh sáng thay bóng tối, lên án kẻ nệ luật mà hại người vô tội, nại vào tục lệ truyền thống cha ông để phá vỡ lề luật đích thực của Thiên Chúa…
Bình an ở đây được hiểu như thế nào? Như trong Tin Mừng Gioan, Chúa nói: “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy, … không như thế gian ban tặng”(Ga 14,27). Bình an của Chúa là một sự bình an nội tâm, bên trong, sâu thẳm nơi tâm hồn, mang sắc thái thực tại vĩnh cửu của nước trời. Chỉ có những ai thuộc về Thiên Chúa, kẻ ấy mới có được bình an này. Khác với bình an theo cách người đời, chỉ là vẻ bề ngoài, giả tạo và hời hợt, chóng tàn mà thôi. Không phải hòa bình là không có chiến tranh, nhưng hòa bình đích thực chỉ có sau những trận chiến ác liệt. ‘Qua thập giá mới đi đến vinh quang của sự phục sinh’. Trận chiến là cuộc phân chia phải trái, thiện ác và quyết liệt chọn lựa điều thiện. Vì thế, nếu chưa chiến đấu là còn lửng lơ, do dự, chưa dứt khoát. Thiên Chúa không chấp nhận tình trạng ương ương dở dở. “Nóng thì nóng hẳn, nguội thì nguộc hẳn”, hâm hâm dở dở, Ngài sẽ loại trừ. Chúa Giêsu nói Ngài đến trần gian không phải để đem lại sự bình an, nghĩa là sự thong dong dễ dãi, nhưng đòi hỏi sự cố gắng phấn đấu, hy sinh, từ bỏ. Một cách nào đó, Chúa Giêsu bị xem là nguyên cớ của các tranh chấp, chống đối. Vì làm sao không có đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối, giữa Chúa Giêsu và thế gian, giữa quyền lực Thiên Chúa và quyền lực thế gian. Ta thấy, trong bất cứ quốc gia nào thì hòa bình hay ‘bình an’ chỉ đến sau cuộc chiến tranh, sau những trận súng đạn, giết dóc…Còn trong Nước Thiên Chúa thì bình an đích thực dành cho những ai chiến thắng sự dữ, chiến thắng tội lỗi và sống mật thiết với Thiên Chúa, thuộc về Thiên Chúa.
Lời Đức Giêsu nói: “Ta đến đem gươm giáo”? Quả thực, Đức Giê su là Ngôi Lời nhập thể, là Lời của Thiên Chúa, “Logos”, như thế Ngài đến trong thế gian như một thứ “vũ khí hiện đại”. Vũ khí đó là Lời Thiên Chúa. Lời Chúa còn sắc bén hơn gươm giáo để chiến đấu với mọi ác thần. Lời Chúa vừa làm cho sống, Lời cứu độ, vừa có sức mạnh tiêu diệt sự ác. Thư Do Thái nói: “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người” (Dt 4,12). Đức Giêsu đã dùng Lời đẩy lui Satan (x Mt 4,1-11). Như thánh Phaolô khuyên các tín hữu khi phải đương đầu với sự ác: “mình mặc áo công chính Chân mang giày lòng hăng hái rao giảng Tin Mừng bình an; luôn luôn giương lên khiên mộc Đức Tin,  nhờ đó anh em có thể dập tắt mọi tên lửa của Kẻ Dữ. Hãy đội lấy mũ chiến cứu rỗi và đeo gươm Thần Khí tức là Lời Thiên Chúa”(Ep 6,14-17). Chỉ có gươm Lời Chúa mới gìn giữ ta và không để Satan cướp mất Đức Tin. Chính Đức Giêsu đã ra lệnh cho các môn đệ: “Ai không có gươm hãy bán cả áo choàng đi mà mua”(Lc 22,36).
Kẻ thù chính là người nhà: Kẻ thù là người nhà” trước nhất là những dục vọng với các khuynh hướng xấu bản thân nổi loạn. Muốn đẩy lui nó phải sống Lời Chúa dạy: “Chúng con được sạch bởi Lời Thầy nói với chúng con”(Ga 15,3); Phải đặt ý Chúa trên mọi ý loài người, kể cả ý người thân tộc. Ví dụ: Vua Saolê chỉ vì ghen tỵ với Đavid mà tìm mưu kế để diệt Đavid. Ông lập mưu tổ chức bữa tiệc gọi là mừng công chiến thắng của Đavid. Nhưng ý đồ đen tối là vua Saolê nhằm giết Đavid trong bữa tiệc lấy cớ say rượu. Gionathan, bạn của Đavid, biết được mưu thâm độc của vua cha nên mật báo cho Đavid chạy trốn(x.1Sm 20). Hay, chính Chúa Giê su, các tông đồ, hay các thánh tử đạo … bị lên án, tố giác, giết chết một phần là do sự tố giác, làm hại. Có thể là bởi những người hàng xóm, người cùng quê hương xứ sở, cùng niềm tin, hay giới lãnh đạo… đó là ‘người nhà’. Thánh vịnh nói: “kẻ cùng con chia cơm sẻ áo lại giơ gót đạp con”(Tv 41, 10). Nơi mà hạt giống Tin mừng vừa mới được rao giảng, ít nhiều sẽ diễn ra cảnh tranh cãi, có thể sự đối kháng giữa người theo Chúa và kẻ khước từ Ngài diễn ra trong một gia đình, dòng họ, địa hạt… bởi niềm tin, văn hóa, tập quán, lề luật…  
Theo Chúa thì phải chọn lựa. Quả thực, Đức Giêsu đến không đem bình an mà đem gươm giáo và người trước tiên phải nhận lãnh gươm giáo đó chính là Ngài, rồi đến các môn đệ Ngài. Bằng chứng là Ngài bị ghét bỏ, chống đối, bắt bớ, rồi bị giết chết. Theo Chúa, người môn đệ cũng phải chấp nhận nhiều thua thiệt, có thể bị chống đối từ trong gia đình đến ngoài xã hội, vì môn đệ không hơn Thầy. Theo Chúa, thì phải chọn lựa, và chỉ chọn lựa tình yêu Chúa và đi con đường hẹp ta mới xứng đáng được gọi là môn đệ Ngài. Chiến đấu chống lại các khuynh hướng xác thịt và tội lỗi nơi bản thân. Chiến đấu chống lại sức ép của xã hội xấu, vì sức mạnh của Satan còn nằm trong thế gian. Thậm chí chiến đấu với những trở ngại mà chính tổ ấm gia đình có thể gây ra cho đời sống đức tin nữa. Theo Chúa mà không muốn hy sinh, từ bỏ thì đó là phản Tin Mừng. Chúa nói: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá hàng ngày…”; “Ai yêu cha mẹ, vợ con, anh em, cửa nhà… hơn Thầy thì không xứng với Thầy…”. Chỉ những ai có sức mạnh và lòng kiên cường, bền đỗ đến cùng mới thành công. Như vậy, muốn theo Chúa phải cố gắng, chiến đấu nhiều và phải hoàn toàn cậy dựa vào ơn Chúa, vì : “Không có Thầy, các con không thể làm gì”(Ga 15,5). Để được sự bình an của Chúa trong cuộc sống này, phải chấp nhận từ bỏ tội lỗi, từ bỏ hận thù, ghen ghét, ích kỷ… can đảm, dứt khoát chọn lựa cho mình tình yêu chân chính và sự bình an vĩnh cửu của Chúa. Dĩ nhiên, Thiên Chúa sẽ không để ai phải thất vọng, vì “ơn Chúa đủ cho ta”. Ngài sẽ đền bù vượt quá sự chờ đợi của ta: "Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Phúc Âm, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương và sự sống vĩnh cửu đời sau”(Mc 10, 29-30). Như thế, theo Chúa ta không sợ mất phần thưởng, mà chỉ sợ ta chưa trung thành trong bổn phận mình mà thôi.

Kết: Chúng ta phải chắc chắn rằng, đi theo Chúa không phải để gây chiến tranh, gây ẩu đả trong gia đình, nhưng là để chọn sống sự thật, sống tình yêu và sống cho Chúa. Hơn nữa, bình an của tâm hồn chỉ có được khi ta dùng vũ khí Lời Chúa để chiến thắng kẻ thù. Sống Đạo là “vác thập giá mình mà theo Thầy Giêsu”. Chúa đã vác thập giá lên đồi Golgotha chịu đóng đinh dâng mình làm Của Lễ lên Chúa Cha. Chúa muốn ta nên giống Ngài. Trong bài giảng trên núi Chúa nói:“Phúc thay ai bị bách vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ”. Muốn chiếm đoạt nước trời thì phải đánh đuổi mọi kẻ thù địch nội, ngoại, phải biết chọn lựa ý Chúa hơn bất cứ điều gì khác, cho dù đó là người thân yêu nhất, thậm chí cả mạng sống mình. Bởi vì có được Chúa là có được bình an vĩnh cửu.

CUỘC GẶP GỠ GIỮA ĐỨC GIÊSU VỚI DA-KÊU

Dẫn nhập
Thi sĩ Dante viết: “Luca là một văn sĩ về lòng thương xót Chúa”(Seriba mansuetudiris Christi). Với tư cách là một văn sĩ chân chính, Luca sáng tác nên một dung mạo Chúa Giêsu không thể nào quên được. Một Thiên Chúa giàu lòng xót thương đến để cứu độ tất cả mọi lớp người. Nơi Ngài, những người ngoại Samaritanô(10,30-37), người tội lỗi (7,36-50), người nghèo (16,19-31), người thu thuế(19,1-10), người trộm cướp(23,39-43)… đều được Ngài đề cao, xót thương và cứu độ. Ngay từ đầu Tin Mừng, Luca đã chỉ cho chúng ta biết đến tình tiết chính ông cũng đã được Tin Mừng hóa. Từ đó, Luca cũng muốn Tin mừng hóa mọi người như vậy. Câu chuyện về ông Da-kêu (Lc 19,1-10) là một trong số nhiều dẫn chứng để cho thấy điều đó. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu và chú giải đoạn trích này, từ đó chúng ta rút ra một vài kết luận làm bài học cho bản thân trên bước đường theo Chúa.
I/ Cuộc gặp gỡ giữa Chúa và Da-kêu (Lc 19,1-10)
Thánh sử Lu-ca diễn tả câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giê-su và ông Da-kêu. Câu chuyện này được đặt vào phân đoạn cuối của cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem của Chúa Giêsu (Lc 9,51-19,27). Suốt cuộc hành trình này, Chúa Giê-su luôn luôn đem đến cho dân chúng phúc lành, mỗi chặng đường Chúa đi là một cuộc chữa lành: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó”(Cv 10,38). Đoạn Tin mừng (Lc 19,1-10), được coi là chặng thi ân cuối cùng trước khi Chúa vào thành Giê-ru-sa-lem, và cũng là chặng tóm lược các bước tiến đến gặp gỡ ơn cứu độ.
1/ Thân thế Da-kêu và sự kiện dẫn ông đến với Chúa.
Ông Da-kêu là người đứng đầu hạng người thu thuế, giống như một chủ thầu. Ông dựa vào luật đế quốc Rô-ma để tự do định mức thu tiền thuế, có thể ông nâng cao mức thu để lấy phần dư sau khi đã nộp đủ mức thuế cho cấp trên. Tất cả tiền thặng dư sẽ thuộc quyền ông định đoạt và chia chác. Nghề thu thuế buộc ông phải tiếp xúc với mọi hạng người, kể cả người ngoại giáo. Chính nghề thu thuế cũng đưa ông đến chỗ cộng tác với đế quốc, để đè đầu dân mình mà thu thuế. Bởi lề luật, mà người Do Thái đã xếp các người thu thuế vào hạng người ô uế, ngang hàng với người tội lỗi, trộm cắp và chỉ đứng sau gái điếm. “Da-kêu lại là người đứng đầu hàng thu thuế, nên lại càng bị khinh khi hơn” 2.
Do bị xếp vào vị trí rốt cùng của xã hội Do Thái, nên việc Da-kêu được ơn cứu độ có tầm vóc quan trọng hơn sự kiện người mù được thấy trước đó(18,35-43). Trước khi Chúa Giêsu vào thành Giê-ri-khô, thánh sử Lu-ca đã diễn tả cho về cuộc gặp gỡ giữa Chúa với anh mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Ngồi xin bên vệ đường cũng thuộc lớp người ở ngoài rìa xã hội, ngồi đó mà không tham gia được vào dòng người đang đi lại trên đường được. Nhưng anh mù rất đỗi hạnh phúc vì sau khi được Chúa chữa cho khỏi mù, anh ta được tháp nhập vào đoàn người đi đường mà tung hô Thiên Chúa(18,43). Sự kiện lớn đó, chắc hẳn đã vang vọng đến tai Da-kêu.
2/ Lòng khao khát gặp Chúa của Da-kêu đã thúc đẩy ông hành động
Đoạn trích này cho thấy Da-kêu quả thực có một lòng khát khao gặp Chúa vô cùng lớn. Có thể ông Da-kêu đã nghe kể về Chúa Giê-su nhiều rồi, nhưng sự việc anh mù được chữa trước cổng thành đã làm cho lòng ông bừng cháy một sự khao khát gặp gỡ Chúa mạnh liệt hơn. Bây giờ là dịp thuận tiện nhất để tỏ bày lòng khát khao đó, vì với Da-kêu, đây là một cơ hội độc nhất vô nhị để gặp được Chúa. Bởi thế, Da-kêu đã vượt qua mọi trở ngại, rào cản về thể lý cũng như tâm lý và cả tôn giáo để gặp gỡ Đức Giêsu. Ông đã quyết định mở lòng mình ra, không còn phải khép nép, sợ hãi vì dư luận. Ta biết rằng, ông là người giàu có về tiền bạc, lại có chức, có quyền nhưng ông là kẻ thất bại trong tương quan với đồng bào mình. Ông bị người Do Thái xa lánh ghẻ lạnh, chính ông đã cảm nghiệm được sự khép lòng của họ đối với ông... Bởi thế, nên khi nghe có một con người không hề xa lánh kẻ tội lỗi, chẳng hề đối xử bất công, lại rất gần gũi và yêu thương mọi lớp người, trong đó có ông mà người đó lại sắp đi qua thành phố, nên ông quyết định gặp cho bằng được. Có lẽ ông không chỉ muốn xem cho tường tận con người kỳ lạ đó là ai, nhưng biết đâu được trong lòng ông đang chờ đợi một điều gì đó nơi Chúa Giêsu.
Dưới con mắt người Do Thái, Da-kêu không những chỉ là một kẻ thấp lùn về thể lý, mà còn bị coi là thấp kém về giá trị nhân phẩm. Mặc dầu ông thấp, nhưng vì lòng khao khát, đã không hổ thẹn trèo lên một cái cây như một đứa trẻ con để nhìn cho được Chúa. Thử tượng tưởng xem, đường đường là một vị quan thu thuế, bệ vệ trong bộ áo thụng thịnh, lại chạy thoăn thoắt đến một cái cây và trèo lên, đu người lên như một đứa trẻ… chúng ta có thể cảm nhận được lòng khao khát gặp Chúa nơi Da-kêu lớn đến cở nào. Một khi lòng cháy bỏng thì không quan ngại hành động trèo cây là của trẻ con, bất chấp vì nhân phẩm bị khinh khi, Da-kêu đã vượt lên trên mọi rào cản để chiến thắng chính mình. “Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu, vì Người sắp đi qua đó”(Lc 19,4). Hành động chạy về phía trước của Da-kêu nói lên việc chiếm được Nước trời không dành cho những ai nhút nhát, sợ hãi, uể oải và ù lì trong lười biếng, tội lỗi hoặc thụt lùi về nhân đức. Một điều chắc chắn nữa là Thiên Chúa sẽ không bao giờ để quên những kẻ khát khao tìm kiếm Ngài. Khi Da-kêu đã chiêm ngắm được Chúa chắc chắn Ngài sẽ đoái nhìn lại và bày tỏ tình thương với ông.
3/ Tình yêu thương của Chúa chạm đến Da-kêu
Chúng ta thử đặt giả thiết, nếu Chúa Giêsu đi ngang qua mà Ngài không nhìn lên Da-kêu, thì cuộc đời của ông sẽ thể nào? Đám đông đi qua rồi, ông lại lủi thủi tuột xuống khỏi cây và tiếp tục lối sống cũ. Như thế, bước đường của ông đến đó gặp ngõ cụt mọi chuyện với ông đâu lại vào đấy. Và nếu Chúa không nhìn đến ông thì Chúa cũng chẳng khác gì những người Do Thái khác, là coi ông như chẳng hiện hữu. Nhưng Chúa đã nhìn lên ông và cho biết Ngài sẽ trọ lại nhà ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay Tôi phải ở lại nhà ông”(Lc 19,5). Đây là một sự bất ngờ vượt quá sự mong đợi và nằm ngoài suy nghĩ của Da-kêu. Ông thấy lòng mình bừng cháy niềm vui, vì được Chúa quan tâm như vậy. Thực ra, Chúa từ lâu đã biết rõ lòng ông đang muốn gì và Ngài đã quyết định trọ lại nhà ông. Chúa chủ động trên bước ngoặt cuộc đời Da-kêu, Ngài đã nhìn lên để mở tiếp con đường cho ông đi. Sự việc trọ lại trong nhà ông là một cuộc viếng thăm nằm trong chương trình của Chúa. Ngài nói “hôm nay” không chỉ là yếu tố thời gian, nhưng là một kế hoạch trong chương trình ban ơn cứu độ của Thiên Chúa, mà Ngài đã thực hiện tại Na-gia-rét(Lc 4, 18-22). Suốt cuộc hành trình này, điều chủ yếu của Ngài là quan tâm đến người nghèo, kẻ tội lỗi và cả người dân ngoại nữa. Ngài đồng bàn với người tội lỗi là đem mối thân tình đến cho họ, xoá tan mọi ngăn cách và nâng họ lên, cho họ biết rằng họ cũng là con cái của Thiên Chúa, xứng đáng được ơn cứu độ. Đối với Da-kêu đó là một diễm phúc quá lớn, vì từ một vị thế bị khinh khi, ghẻ lạnh và thấp kém về giá trị trong con mắt đồng bào Do Thái, mà giờ đây đã được Chúa xóa đi. Ông đầy hãnh diện, sung sướng vì được chung bàn với một vị lẫy lừng danh thơm tiếng tốt đầy quyền uy, mà vị ấy sẵn sàng xóa tan mọi sự thấp bé để nâng ông lên.
Nỗi băn khoăn, căng thẳng, mặc cảm vì bị rẻ rúng của Da-kêu nay đã được Chúa đến xua tan. Thay vào đó là niềm vui, an bình đã tràn ngập cõi lòng Da-kêu. Mặc dầu thánh sử Luca không nói tới gia nhân, người thân trong gia đình của ông như vợ con.. nhưng chắc chắn cả đại gia đình ông đều tràn ngập sự bình an và vui sướng. Chắc chắn là tất cả mọi người trong nhà đều tập trung cho công việc dọn tiệc thết đãi Chúa. Vì thế Chúa đã nói: “hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham”(Lc 19,9). Như thế, việc Chúa Giêsu đoái nhìn đến thân phận Da-kêu, Ngài đến nhà và ngồi đồng bàn với gia đình ông, đã trở thành động lực khiến ông thay đổi cuộc đời cách hoàn toàn. Ông đã không chút hồ nghi về thân thế Chúa Giêsu, vì qua Ngài ông cảm nhận được tình yêu và lòng xót thương vô bờ bến của Thiên Chúa.
4/ Da-kêu đã có sự đổi mới cuộc đời
Ta thấy, Chúa Giêsu thì đến nhà và cùng đồng bàn với gia đình Da-kêu, hoàn toàn trái ngược với những người Do Thái tự cho mình đạo đức. Họ xầm xì trách móc Chúa: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”(Lc 19,7). Người Do Thái xầm xì vì họ tự cho mình là tốt lành và đối với họ hạng người thu thuế là không hề xứng đáng để được cứu độ. Chúa đã bỏ ngoài tai mọi chỉ trích đó, Ngài muốn cho họ biết rằng ơn cứu độ là dành cho tất cả mọi người, thuộc mọi quốc gia, sắc tộc chứ không riêng gì người Do Thái. Đó chính là tính phổ quát của ơn cứu độ. Qua sự việc đó cho thấy sự công chính và ơn cứu độ không phải do con người quyết định mà chính Thiên Chúa mới cứu độ con người. Phần con người có được cứu độ hay không là do họ có lòng ước muốn sẵn sàng khiêm tốn mở lòng ra để đón nhận.
Được Chúa Giê-su đồng bàn và xoá tan mọi ngăn cách, Da-kêu chủ động sám hối, vì qua bữa tiệc này, ông hiểu là ông được kêu gọi đi vào hiệp thông với Thiên Chúa. Như vậy, nhờ trung gian của Đức Giêsu ông đã nhận được ơn cứu độ dù ông chỉ là một người tội lỗi (Lc 19,9). Từ đây, ông thay đã đổi hẳn cuộc đời của mình. Ông công khai nói với Chúa và mọi người rằng tài sản của ông sẽ chia cho người nghèo một nửa và mọi thiệt hại do ông gây ra cho bất cứ ai thì ông xin đền gấp bốn. Như thế, của cải, giàu sang, địa vị, quan quyền chẳng là gì cả so với cuộc viếng thăm của Chúa Giêsu. Qua cuộc viếng thăm này ơn cứu độ  đã tràn ngập trong nhà ông.
II/ Một vài điểm kết luận áp dụng
Ta thấy trước đây, người đồng bào chẳng coi Da-kêu ra gì, họ tránh tiếp xúc với ông, và chính Da-kêu cũng chẳng hơn gì ai, ông sẵn sàng đè đầu người ta để thu thuế, thậm chí nâng cao mức thu, miễn sao có nhiều của cải. Bằng chứng việc này thể hiện nơi lời thú tội của ông: “Nếu làm thiệt hại ai thì xin đền gấp bốn”. Người Do Thái và ông không tìm được điểm chung, nhưng khi được Chúa quan tâm đến, ông lập tức mở lòng ra với người chung quanh, sẵn sàng phân phát của cải cho người nghèo, và ông bắt đầu nghĩ về những người mà ông đã làm thiệt hại từ trước đến giờ. Đây chính là biểu hiện sức mạnh của tình yêu. Khi con người sống trong thù hận thì bác ái không triển nở, nhưng khi có tình yêu thì bác ái là sợi giây liên kết họ lại với nhau. Chúa Giê-su đã đem tình yêu đến cho Da-kêu, nên ông đã phá bỏ mọi ngăn cách với người khác và hoa quả tình yêu nơi ông bắt đầu khai nở. Ông coi mọi người là tha nhân, là đối tượng để ông trao ban tình yêu, đặc biệt là người nghèo. Bài học cho ta là những chủng sinh linh mục tương lai, ta phải luôn biết xây dựng tình yêu (yêu Chúa và yêu tha nhân), khi có tình yêu thực sự, ta sẽ dễ dàng sống khó nghèo đứng về phía người nghèo và yêu thương phục vụ họ được.
Ta cũng cần biết tránh xa thái độ của người Do Thái là hờ hững, khinh khi người khác, nhất là đối với người tội lỗi. Ta không được phép xét đoán và nhìn người khác theo nhãn quan tiêu cực, nhưng phải đón nhận họ dù họ là ai. Ngược lại, phải có cái nhìn tích cực, sẵn sàng đón tiếp mọi hạng người, đưa họ đến gặp Chúa. Hơn nữa, người mục tử tương lai phải biết hy sinh tính mạng vì chiên, như Chúa đã làm, để qua đời sống của ta, mọi người nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Da-kêu không chỉ là người thu thuế mà lại là người giàu nữa, mà người giàu có thì khó vào nước trời: “Con Lạc Đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước trời”(Lc 18,25). Như thế, theo con mắt của người Do Thái đạo đức, thì Da-kêu là hạng người không thể được cứu độ là không phải không có lý của họ. Vì thế mà mỗi lần Chúa Giê-su tiếp xúc hạng người bị cho là tội lỗi thì người Do Thái đều khiển trách và bực tức Chúa. Nhưng tự con người không thể cứu mình được, dù là người dự đúng luật Mô-sê. Thiên Chúa mới là chủ thể ban ơn cứu độ cho con người. Ngài là Đấng công chính, thực hiện ơn cứu độ trên người đạo đức cũng như người tội lỗi. Sự kiện Da-kêu được cứu là lời giải đáp thắc mắc cho các môn đệ:“Thế thì ai có thể được cứu”(Lc 18,26). Ai mở lòng ra đón Chúa Giêsu, thì người ấy dĩ nhiên nhận được ơn cứu độ, vì Ngài là Đấng thực thi ơn cứu độ mà Thiên Chúa hứa ban cho nhân loại, và chính Ngài là ơn cứu độ. Ngài nói: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”(Ga 14,6).
Quả thật, chạy suốt Tin mừng Lu-ca, chúng ta thấy cuộc hành trình của Chúa từ lúc bắt đầu cho đến cuối là một cuộc hành trình thi ân giáng phúc cho dân, đặc biệt cho người nghèo và người tội lỗi bị xã hội khinh bỉ. Ba thế lực khống chế con người mà Chúa luôn quan tâm và chữa khỏi, là trục xuất ma quỉ ra khỏi con người(4,35; 8,26-33; 9,42), các bệnh tật thể lý(4,39-40; 5,13.24-26; 6,10; 13,10-12; …) và cho người chết sống lại(7,14-15; 8,55). Đồng thời, Chúa tháo bỏ rào cản, mở đường cho người tội lỗi thấy mình cũng được Thiên Chúa yêu thương(5,21-32; 18,13-14; 19,1-10). Qua các cuộc chữa lành, nhất là sự kiện ông Da-kêu được cứu, chúng ta thấy Thiên Chúa luôn luôn chủ động đến với con người, săn sóc con người và chữa lành mọi vết thương cho con người. Ngài đến với con người để tìm và cứu lấy những gì đã mất (x.Lc 19,10). Nhưng để được cứu, con người phải có lòng khao khát và muốn được cứu như ông Da-kêu.
Xét về khả năng con người, bất cứ ai cũng nhận thấy được mình bị “lùn” một cách nào đó. Người lùn về thể lý không đáng lo ngại bằng kẻ lùn, thấp về tri thức, giá trị nhân phẩm, tình thương yêu đồng loại… Chỉ khi chúng ta ý thức được mình bị lùn về nhiều khả năng để có thể sống với Chúa và tha nhân, ta mới khiêm nhường trèo lên những “cây sung”. Cây sung đó có thể là người bạn, là thầy ta, hay đứng trên vai các vị thánh, các thánh Giáo Phụ, các nhà khoa học… đặc biệt là qua trung gian Giáo Hội để tìm kiếm chân lý và tìm về với Chúa là cùng đích đời ta. Mặc dù nói như Thánh Phaolô “Ơn Chúa đủ cho ta”(2 Cr 12,9), nhưng để được cứu độ, đòi buộc ta phải hết sức cộng tác với ơn sủng Chúa ban.




2 x. Giáo trình học của giáo sư Lm.Fx Vũ Phan Long OFM, tr.51)

TÌNH YÊU ! MỘT VÀI SUY TƯ

Dẫn nhập
Tình yêu là đề tài muôn thuở, là một thực tại rất đỗi quan trọng gây nguồn cảm hứng sáng tác cho giới nghệ thuật từ cổ chí kim. Nói đến tình yêu như là nói đến một thực tại huyền nhiệm không ai hiểu thấu nhưng chẳng hề xa lạ đối với bất cứ con người nào. Người ta chỉ có thể ví tình yêu như là hơi thở của cuộc sống con người, nếu còn tình yêu thì còn sự sống mà mất tình yêu là mất hẳn đi sự sống đích thực nơi con người. Có thể nói rằng, chẳng ai có thể hiểu rõ được tận căn, ngọn nguồn của tình yêu, cũng chẳng ai dễ dàng cắt nghĩa được nó. “Có ai định nghĩa được tình yêu”?(Xuân Diệu). Tuy nhiên, không phải vì tình yêu là một huyền nhiệm mà chúng ta không thể không biết được gì về nó, trái lại là con người, ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần chạm đến tình yêu, vì chúng ta sống chung và luôn sống trong tình yêu. Vậy chắc chắn chúng ta đã hiểu biết ít nhiều về tình yêu. Nhưng chúng ta phải hiểu như thế nào? để hằng ngày, trong cuộc sống tương quan với con người, với thế giới, với thiên nhiên và với Thiên Chúa, ta biết diễn tả tình yêu đó cách hợp lý, đúng đắn và hiệu quả nhất.
Thánh Gioan Tông Đồ đã định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”(1 Ga 4,8), và vì yêu thương nên đã mạc khải mầu nhiệm tình yêu ấy cho con người, để con người có khả năng thông hiệp với Ngài, nhờ đó mà được sống và được sống hạnh phúc. Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người và đã ghi dấu ấn của Ngài vào con người, bằng cách sáng tạo con người có nam, có nữ và cho con người trở nên giống hình ảnh Ngài(x. St 1, 27). Hình ảnh đó phản chiếu tình yêu Thiên Chúa bằng sự hiệp thông thần linh giữa các ngôi vị. Nghĩa là, Con người đã trở nên hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa nhờ sự hiệp thông ngôi vị giữa người nam và người nữ nữa. Theo sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số 1602 có ghi rằng: “từ đầu đến cuối, Kinh Thánh nói về hôn nhân và mầu nhiệm hôn nhân, về việc thiết lập và ý nghĩa mà Thiên Chúa đã ban cho nó, về nguồn gốc và mục đích của hôn nhân, về những biến chuyển qua dòng lịch sử cứu độ, về những khó khăn do tội và việc canh tân trong Chúa (1 Cr 7,39), trong Giáo Ước Mới giữa Đức Kitô và Hội Thánh”. Cụ thể hơn, đó là việc Thiên Chúa đã thiết lập và ban định luật riêng cho đời sống hôn nhân và cho cộng đoàn tình yêu vợ chồng. Như thế, chính Thiên Chúa là Đấng tác tạo hôn nhân. Cuộc tác tạo hôn nhân đó vừa mang tính hữu hình vừa diễn tả một thực tại linh thánh vô hình. Đọc Kinh Thánh, cụ thể trong sách Diễm Ca, chúng ta cũng đã có câu trả lời, dù rằng câu trả lời đó chưa phải là thỏa đáng, nhưng cũng là một bằng chứng xác đáng để chúng ta nói về một tình yêu huyền nhiệm, một tình yêu cao đẹp giữa con người là thụ tạo với Đấng Tạo Hóa là chính Thiên Chúa. Qua đó, cho ta thấy sự cần thiết của người kitô hữu trong sự nổ lực đáp trả tình yêu mà chính Thiên Chúa đã khởi sự và đi bước trước khi dành tặng tình yêu của Ngài cách đă’c biệt cho con người.
1/ Hình ảnh tình yêu đôi lứa trong sách Diễm ca
Việt Nam ta có một câu ca dao thật đẹp và đáng nhớ: "Yêu nhau mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua". Câu ca thật đẹp vì nó đã nói lên được giá trị cao quý của tình yêu nam nữ; cụ thể hơn qua tình yêu đôi lứa. Tình yêu đôi lứa là chủ đề cho các nghệ sĩ sáng tạo ra biết bao bài hát, bức hoạ, bài thơ và những áng văn tuyệt vời. Dường như tình yêu đôi lứa đã làm cho cuộc đời này tươi đẹp và phong phú hơn.
Trong Cựu Ước, các ngôn sứ đã vay mượn ngôn ngữ tình yêu lứa đôi, tình yêu nhân loại để diễn tả kinh nghiệm của mình về một tương quan đặc tuyển với Thiên Chúa, tương quan mà một ngày nào đó sẽ được trao tặng cho toàn thể Israel. Tình yêu nam nữ được diễn tả trong sách Diễm ca, là một tình yêu hết sức thơ mộng, tuyệt mỹ, đầy kịch tính và hấp dẫn. Câu chuyện tình Chàng và Nàng gợi nhớ những kinh nghiệm riêng tư làm đánh động trái tim độc giả. Đây là áng văn thơ về lứa đôi gặp nhau, mục đích của tác giả là đưa cuộc gặp gỡ này vào trong mơ, để từ từ vén bức màn tỏ lộ bí nhiệm ẩn dấu bên trong[1]. Trong lúc thả hồn bay bổng theo giấc mộng yêu đương, tác giả sách Diễm Ca nghiệm lại niềm hy vọng của dân được Chúa chọn. Hình ảnh Nàng của Thiên Chúa trước hết đó là dân Israel, dân được Thiên Chúa chọn và ban cho đất hứa, Đấng là tình quân mà dân đón đợi, đó chính là hình ảnh Đấng Mê-si-a.
Đối với một Kitô hữu, tình yêu đôi lứa thật đẹp và đáng tôn trọng vì nó đã phản ánh phần nào về tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Tình yêu này chỉ thật sự đẹp và cao trọng khi được đặt trong tương quan với Chúa; chính Chúa đã mời gọi và hơn thế nữa Ngài là sợi chỉ thắt chặt đôi bạn trẻ với nhau; nếu không có sự tương quan với Chúa, tình yêu đôi lứa sẽ không bền vững. Có thể không ngần ngại khi nhấn mạnh được rằng: Thiên Chúa đã si tình, mãi mê đi tìm một thụ tạo do chính tay Ngài tạo dựng nên để yêu, để thủ thỉ, để phối hợp trong cuộc tình linh thánh. Cuộc tình này kéo dài từ khởi thủy cho đến cánh chung, nghĩa là qua mọi thời và muôn thế hệ, Thiên Chúa vẫn mãi đi tìm và cứu vớt con người như một kẻ si tình đi tình kiếm thụ tạo do chính Ngài tạo dựng nhưng trong tư cách của "Phu Quân" đi tìm cưới "Hôn Thê" của mình. Tình yêu tuyệt diệu mà Thiên Chúa đã dành tặng con người là quá sức tưởng tượng và vượt hẳn trí hiểu của con người, tình yêu đó có sức mạnh quyến rũ vượt hẳn tình yêu giữa chàng và nàng, "thảo nào các thiếu nữ mê say mộ mến"(Dc 1,3). Hình ảnh các thiếu nữ ở đây phải chăng là hình ảnh ví von dành cho các vị thánh, tâm hồn những con người say mê Thiên Chúa thực sự. Các ngài có lòng mến yêu, mong được kết hiệp với Thiên Chúa như người thiếu nữ khát mong gặp được Đấng Tình Quân của mình: "Hãy kéo em theo anh, đôi ta cùng nhau bước"(Dc 1,4). Để một khi con người được kết hiệp với Thiên Chúa, tình quân của mình thì Thiên Chúa sẽ là "hoan lạc vui sướng" của linh hồn con người.
Thế nhưng làm sao để linh hồn con người có được sự chắc chắn, làm sao chiếm được Thiên Chúa và làm sao để trái tim con người thuộc trọn về Ngài? Một đàng, 'nàng vẫn mãi mê tìm kiếm chàng, một đàng 'nàng'’lại không chịu canh giữ và dành trọn tâm hồn mình cho chàng, bằng chứng là chỗ: "vườn nho của tôi, tôi không canh giữ". Hình ảnh vườn nho không được chủ nhân canh giữ có thể hiểu được như là tâm hồn của người tín hữu, cũng có thể là họa ảnh về lòng trung thành, sự chung thủy của dân Ít-ra-en. Đã thiếu cảnh giác và canh giữ mình, nên dân Chúa đã để cho tà thần quấy phá, rất nhiều lần vườn nho ấy bị dân ngoại dày xéo: " trâu rừng vào phá phác, dả thú gặm tang hoang"... Việc Ít-ra-en thờ thần ngoại bang, thờ ngẫu tượng và chống đối lại các ngôn sứ, tiên tri đã lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong suốt chiều dài lịch sử cứu độ, đó chính là biểu hiện của sự bất trung, thiếu chung thủy...
Một tình yêu đôi lứa chỉ cao cả và huyền diệu khi họ thực sự đến với nhau bằng con tim chân thành, sẵn sàng chia sẽ cho nhau những niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống, và họ luôn mong những điều tốt đẹp nhất cho người yêu. Chỉ cần người nam được nhìn thấy người nữ hay người nữ nhìn thấy người nam là họ đã vui tươi hớn hở. Còn khi vắng nhau, họ ca ngợi nhau, tán dương về nhau, bảo vệ nhau bằng mọi giá. Bởi trong trái tim, trong ánh mắt của họ thì người yêu của mình vẫn là số một giữa muôn người, là “độc nhất vô nhị” giữa thế gian này. Diễm Ca đã diễn tả rất sống động và rõ nét điều đó trong hai bài ca đầu: Chàng khen nàng "người yêu tôi là chùm mộc dược; khóm móng rồng... nàng đẹp quá bạn tình ơi, đôi mắt nàng là một cạp bồ câu. Nàng thì khen chàng: ' Anh đẹp, anh tuấn tú làm sao'; người yêu tôi giữa đoàn trai tráng, như cây táo giữa muôn loài cây rừng;... (Dc 1, 13-2, 17).
Một tình yêu đôi lứa cao cả và huyền diệu là dám hy sinh cho nhau. Dám hy sinh cho nhau sẽ làm cho tình yêu trở nên linh thiêng hơn; họ luôn mong muốn những điều tốt đẹp nhất đến cho người mình yêu dù phải hy sinh cả bản thân mình, như lời Chúa dạy: "Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu" (Ga 15,13). Nếu người yêu gặp khó khăn, buồn khổ trong cuộc sống, họ sẽ hy sinh mọi thứ của bản thân để đến chia sẽ và mang lấy đau khổ của người yêu với mong ước người yêu được vui tươi và hạnh phúc. Thánh Phaolô đã khuyên bảo "người chồng phải yêu thương vợ mình" như chính Đức Kitô đã yêu thương và hiến mình vì Hội Thánh(x.
Một tình yêu đôi lứa cao cả và chân thành sẽ nhắm đến hôn nhân. Khi tạo dựng, Chúa đã muốn Ađam và Evà đến với nhau và sinh con đẻ cái cho đầy mặt đất, có nghĩa rằng hai ông bà sẽ đến với nhau để làm thành một gia đình gồm người vơ, người chồng và con cái. Bởi thế tình yêu đôi lứa là nền tảng xây dựng tình yêu hôn nhận gia đình hay tình yêu vợ chồng. Do đó, tình yêu đôi lứa có vai trò quan trọng và cần thiết để xây dựng một gia đình hạnh phúc. Không thể có một gia đình hạnh phúc nếu trong giai đoạn hẹn hò, đôi bạn trẻ không có được một tình yêu chân thành. Cho nên, khi yêu nhau, đôi bạn trẻ cần trân trọng nhau, đến với nhau bằng tình yêu chân thành và gìn giữ cho nhau vì hạnh phúc sau này. Nếu đôi bạn trẻ hiểu nhau và dám hy sinh cho nhau, thì họ dễ có được một gia đình hạnh phúc. Như vậy, để đôi bạn có thể nói được: "Tôi thuộc về người tôi yêu dấu/ Người yêu tôi thuộc trọn về tôi" (Dc 6,3), thì họ cần có được một tình yêu đôi lứa cao thượng và chân thành.
2/ Thiên Chúa là tình yêu đã thiết lập hôn ước tình yêu giữa người nam và người nữ
Tình yêu đôi lứa, một thứ tình yêu vừa là “thuốc bổ” vừa là “thuốc độc”, nó đã làm hao tổn biết bao nhiêu là công sức, giấy mực? Tuy đã để lại biết bao điều tốt đẹp nhưng cũng không ít tai họa khổ đau. Ví như Thành Tơroa mất cũng chỉ vì một ả nô tì, nước Việt mất cũng bởi tại nàng Mỹ Châu; hàng tá câu chuyện được Kinh Thánh ghi lại: Thánh Vua Đa- vít đã vì bà vợ của Phi-líp mà phạm tội chống lại Thiên Chúa; Gioan Tẩy Giả bị chém mất đầu cũng chỉ vì mối tình đen tối giữa Vua Hê-rô-đê và bà Hê-rô-đi-a; Truyền thuyết dân tộc Việt cũng ghi lại hình ảnh cuộc giao tranh hằng năm giữa anh chàng Sơn Tinh và Thủy tinh cũng chỉ vì một Mỹ Nương, truyền thuyết Ngưu Lan – Trúc Nữ… Tuy nhiên, cũng bởi những chuyện tình đẹp mà chúng ta được thưởng thức các tác phẩm như Romeo và Juliet của W. Shakespeare, truyện Kiều của Nguyễn Du, những áng thơ tình lãng mạn của Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Hồ Xuân Hương hay như nụ cười bí ấn của nàng Mônaliza trong tranh của L.Davinci, thêm vào đó là cả và một kho tàng thi ca, ca dao tục ngữ, vè, hát đối thể theo dân ca của các dân tộc, quốc gia trên thế giới để ngợi ca và tôn vinh vẻ đẹp của tình yêu lứa đôi…tất cả như thêu dệt một bức tranh toàn cảnh của tình yêu.    
Ngày nay, nhân loại đang bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên công nghệ số hóa. Chúng ta được chứng kiến và thừa hưởng nhiều thành quả các cuộc cách mạng khoa học kỷ thuật. Cuộc sống đầy đủ hơn, tiện nghi hơn, giàu đẹp hơn… nhưng cũng làm cho ta trở nên ươn lười hơn, cô đơn hơn và vị kỷ hơn trong mọi hành vi đối với chính mình và với tha nhân. Trong cái thế giới tân thời bất ổn này thì tình yêu cũng đã và đang biến thái, đổi mới và trá hình dưới muôn vàn dạng thức. Tình yêu chuyển đổi thành thương mại hóa. Ai đã từng đọc tiểu thuyết “tình yêu hàng chợ” của tác giả Nguyễn Đình Lâm, nhà xuất bản Thanh niên, kể về những mối tình “đến rồi đi” trong những khoảnh khắc ngắn ngủi của tầng lớp công nhân Việt Nam tại Liên Bang Nga, thì có thể thấy rõ một thực trạng đen tối trong tình trường. Thế giới khắp đó đây, hằng ngày xảy ra muôn vàn câu chuyện đau lòng do hậu quả của tình yêu bất chính, chiếm đoạt và vị kỷ. Người ta có thể bằng mọi cách để biến chuyển tình yêu sang một mô típ khác, mà phần lớn là thiếu sự hiểu biết minh bạch và tường tận về bản chất và giá trị đích thực của tình yêu. Khối người đồng hóa tình yêu là tình dục; vô số kẻ biến tình yêu thành hàng hóa, vì họ cho rằng có tiền là có tình yêu; thậm chí có thể vì nhục thể sắc dục hay vì quyền thế kẻ trên mà người ta không cần đếm xỉa gì đến tuổi tác, giới tính, nhan sắc, tài năng địa vị. Thêm vào đó là có không ít kẻ tin vào mối tình sét đánh, hoặc vì ảnh hưởng phim ảnh đồi trụy mà tầng lớp giới trẻ đã bị tha hóa trong tình yêu chung chạ xác thịt. Lối sống dục vọng nhấn chìm con người trong vòng nô lệ của chính mình là cái tôi vị kỷ, của “chủ nghĩa cá nhân”. Bao tội ác chiến tranh, tham nhũng, mua thần bán thánh, giết người cướp của, khủng bố tràn lan, tội phá thai cũng đang leo thang. Không nói đâu xa, chỉ ở Việt Nam chúng ta, báo cáo của quỹ nhi đồng Liên Hiệp Quốc công bố: Việt Nam là nước có tệ nạn Phá Thai đứng thứ 3 thế giới, người làm nghề bằng mãi dâm cao thứ 2 ở Đông Nam Á. Cũng trong guồng xoáy của xã hội nhiêu khê hỗn loạn về mặt văn hóa, luân lý đạo đức mà rất nhiều người sống như động vật theo lối bầy đàn; nhiều nhóm hội chơi trò đổi vợ; khối kẻ không cần kết hôn nhưng cũng sinh con; thậm chí có nhiều kẻ đứng lên đòi quyền tự do yêu đương và kết hôn đồng tính, ấy thế mà một số lớn nhà cầm quyền cũng nhắm mắt chấp nhận như chẳng có gì là trái với luân thường đạo lý.
Tình yêu đôi lứa đích thực, phải là một tình yêu được bắt nguồn từ tình yêu siêu việt, bất diệt và thủy chung. Khuôn mẫu tình yêu mang tính siêu việt, bất diệt và thủy chung vĩnh cửu chỉ có nơi Thiên Chúa. Hơn nữa, tình yêu đôi lứa đó phải phù hợp với những chuẩn mực giá trị đạo đức. Tình yêu chân chính, đích thực giữa hai người nam - nữ yêu nhau phải luôn hướng về nhau, dâng hiến cho nhau trọn cả xác hồn, cả đời sống vật chất - tinh thần và tất cả những gì được xem là thiêng liêng cao quý nhất trong toàn bộ thế giới riêng tư nơi ngôi vị của họ, đồng thời họ phải hướng tình yêu đó đến bậc sống vợ chồng. Để từ cuộc sống vợ chồng, họ bổ túc cho nhau và làm giàu cho nhau những khả năng mà tạo hóa đã thông ban cho họ theo ý định ngàn đời. Tình yêu đó thực sự có hiệu năng khi nó được mặc vào dấu ấn thiêng liêng cao quý của Đấng Tạo Hóa.
Ý nghĩa tình yêu đôi lứa trong hôn nhân Kitô giáo.
Trong niềm tin ki-tô, ý nghĩa tình yêu đôi lứa là một thực tại, hay dấu chỉ diễn tả tình yêu thiêng liêng, siêu việt, vĩnh cửu trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Một Thiên Chúa thông hiệp giữa Chúa Cha – Chúa Con và Chúa Thánh Thần; đồng thời tình yêu đó còn là hình ảnh diễn tả tình yêu đích thực, vĩnh cửu không sẽ chia giữa Thiên Chúa đối với loài người và giữa Đức Kitô với Giáo Hội là hiền thê của Ngài[[2]]. Bởi vì, tình yêu giữa vợ chồng trong hôn nhân Kitô giáo được Đức Kitô đóng ấn khi Ngài thiết lập Bí tích Hôn Phối.
Trong ngôn ngữ của tình yêu, người ta thường gọi “của anh”, “của em” hay “mình ơi”.. đó là từ thông dụng để chỉ về một mối quan hệ mà họ thuộc trọn về nhau trên bình diện ngôi vị. Tuy nhiên, trong mức độ tình yêu thì không dừng lại ở chỗ chiếm đoạt, chiếm hữu hay hưởng thụ như là một sự phục vụ mà nó còn vượt lên trên tất cả những gì mang tính trần tục, thế gian. Đó là một sự trao dâng và hiến tặng nhưng để đi đến một thực tại khác đó là có được hạnh phúc lâu bền.
Ta thử so sánh hai thái độ hoàn toàn trái ngược nhau được Thánh Kinh ghi lại: Trong sách sáng thế chương 3, Thiên Chúa phán với người phụ nữ: “ngươi sẽ thèm muốn chồng người và nó sẽ thống trị ngươi”(St 3,16). Sự thèm muốn này tuy nó mang cả ý nghĩa về sự thèm muốn nhục dục, nhưng sự thèm muốn đó đã được hợp thức hóa, nơi sự thống trị của người chồng trên người vợ. Eva đã phục tùng chồng là Adam và cả hai đã nên vợ chồng. Còn trong Tin Mừng Mat-thêu, Chúa Giêsu nói: “ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn thì đã phạm tội ngoại tình với người ấy”(Mt 5,28). Đây là sự thèm muốn của người đàn ông về người phụ nữ khi hai người chưa có hôn ước nào giữa họ, khi đó sự thèm muốn sẽ là tội.
Rõ ràng tình yêu phải được gắn với đời sống hôn nhân, nghĩa là cả hai người nam nữ yêu nhau thì phải hướng đến một cộng đoàn gia đình, một tổ ấm hạnh phúc. Sách Giáo lý công giáo ghi rõ: “tình yêu vợ chồng bao gồm một tổng thể, trong đó có đủ mọi yếu tố cấu nên ngôi vị: tiếng gọi của thể xác và bản năng, sức mạnh của cảm tính và lòng yêu mến, khát vọng của tinh thần và ý chí; tình yêu thương ấy nhắm đến một sự hiệp nhất sâu xa về ngôi vị không chỉ là sự kết hợp thành một thân xác, nhưng là sự hiệp nhất đến độ chỉ còn một trái tim, một linh hồn, bất khả phân ly và trung tín trao hiến cách dứt khoát, mở ngỏ cho việc sinh sản” [[3]]. Nghĩa là tình yêu nam – nữ đó phải hướng đến đời sống hôn nhân, cùng sinh con cái và giáo dục chúng một cách có trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa và Giáo Hội. Việc sinh con là diễm phúc họ được cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Giáo dục con cái lớn lên trong đức tin là bổn phận và trách nhiệm của gia đình họ đang gánh vác. Hiến thân cho nhau đó là một hành vi biểu hiện sự hòa hợp, sự trao ban trọn vẹn như hành động hiến tế. Chính Đức Kitô đã hiến mình vì Giáo Hội, Ngài không chỉ hy sinh tính mạng, hiến tế chính mình để hàn gắn lại mối hiệp thông bị Nguyên tổ phá vở. Ngài còn hiến mình cho nhân loại trong Bí tích Thánh Thể, Ngài tự nguyện trở nên lương thực nuôi sống linh hồn loài người ta. Chính Đức Kitô còn là Ngôi Lời nhập thể, Lời hằng sống cho con người. Sự hiến dâng chính mình cho Giáo Hội là một dấu chỉ đồng thời là lời mời gọi cho nhân loại sống mầu nhiệm tình yêu ấy trong cuộc đời. Thánh Phaolô khuyến: Người chồng phải yêu thương vợ mình như Đức Ki tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; người vợ phải phục tùng chồng trong mọi sự như vậy(x. Ep 5,24-25).



[1] X. Lời Chúa cho mọi người, Phần dẫn nhập sách Diễm Ca,  nhóm phiên dịch các giờ kinh phụng vụ dịch
[2] Tad Guzie, người dịch lm Đaminh Nguyễn Đức Thông, Căn bản Bí tích, Học Viện DCCT Sài Gòn 2002. 333-334.
[3] Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 1643. (Tông huấn gia đình số 13).

CON NGƯỜI CHÚNG TA LÀ AI ?



LỜI DẪN

            "Con người có quan hệ với chính mình và có khả năng suy tư về chính mình"[1]. Bởi vây, mà ngay từ thời thượng cổ, con người đã biết đi tìm sự khôn ngoan qua việc con người biết suy tư về chính mình. Đặt mình trước những công trình kỳ vĩ của Tạo Hóa, từ lâu loài người đã đặt cho mình câu hỏi "con người là gì?". Theo thời gian, lý trí con người cũng đã dần được mở ra với Tạo Hóa, với vũ trụ và với chính mình. Những người khôn ngoan của Hylạp cổ đại đã đưa ra rất nhiều quan niệm, nhiều cách nhìn khác nhau nhằm để trả lời cho câu hỏi "con người là gì?". Tuy nhiên tất cả đều không đưa đến cho con người một sự thỏa mãn khi muốn hiểu biết được về chính mình. Vấn nạn đó vẫn luôn đeo đuổi trong những khía cạnh khác nhau của đời sống và trong những trăn trở, suy tư của con người.
            Đến thời Trung cổ, với trí thông minh phú bẩm và ơn soi sáng của Thiên Chúa, thánh Augustinô (354-430) và thánh Tôma Đacanh (1225-1274) đã đưa ra cho nhân loại một cái nhìn độc đáo và mới mẻ về con người qua tư tưởng triết học của mình. Nhãn quan đó đã để lại tiếng vang và ảnh hưởng lớn cho kho tàng triết học nhân loại nói chung và triết học Trung cổ, hay triết học Kitô giáo nói riêng mãi tới ngày nay. Hai thánh đã suy tư và nắm bắt những tư tưởng triết học của Platon và của Aristote trong kinh nghiệm của đức tin, của ân sủng và Thánh Kinh để tạo thành triết lý cho riêng mình. Vì thế mà thánh Augustinô được xem là người "Kitô hóa" triết học của Platon. Thánh nhân "đã tận dụng hết những gì một hạt giống văn hóa nơi truyền thống Platon có thể có được, để trở thành con đường đến cùng Thiên Chúa"[2] và biến truyền thống đó thành cách tư duy Kitô giáo. Còn thánh Tôma Đacanh thì được xem là "người "rửa tội" cho học thuyết của Aristote, để biến học thuyết đó thành công cụ giải thích thế giới và đức tin đúng tinh thần Kitô giáo."[3] Nhãn quan của hai thánh về con người được nhân loại nhìn nhận là bởi trong đó có lập luận một logic, hợp lý, khoa học và một trí tuệ xuất chúng, siêu phàm. Cả hai người cũng đều được Giáo Hội tôn kính đặc biệt và nâng lên hàng Tiến Sỹ Hội Thánh. Bởi Giáo Hội thấy được sự phù hợp trong triết lý của hai thánh đối với các tín điều Giáo Hội dạy và có cơ sở vững chắc trong việc giải quyết những vấn nạn mà nhân loại đòi hỏi: vấn nạn về linh hồn, vấn nạn về đức tin và lý trí, vấn nạn về sự dữ, sự tự do hay về tội lỗi..v.v..
            Trong những ảnh hưởng và đóng góp to lớn đó, nhân loại vẫn muốn dừng lại để ngắm nhìn nhãn quan mới mẻ, độc đáo và tiên tiến của thánh Augustinô và thánh Tôma Đacanh về con người. Nhãn quan đó được mở ra trong sự hài hòa giữa đức tin của tôn giáo và lý trí của khoa học.

I.   QUAN NIỆM CỦA CÁC TRIẾT GIA HYLẠP CỔ ĐẠI VỀ CON NGƯỜI
           
            Khởi đầu chặng đường đi tìm khôn ngoan, các nhà thông thái của Hylạp đã tìm đến với vũ trụ và đặt lý trí của mình vào đó để suy tư. Họ rất ít đề cập đến vấn đề con người trong triết học, và có đề cập tới đi nữa thì cũng rất mơ hồ. Cùng với thời gian, các nhà triết học sau này đã nhận ra được con người và những vấn đề của đời sống con người là cả một kho tàng để lý trí tư duy và khám phá. Chính vì thế mà các nhà triết học của Hylạp Cổ đại đã bắt đầu quay về với con người, về với cuộc sống sinh động đang diễn ra, cuộc sống mà chính họ cũng đang tham gia và họ bắt đầu lấy con người làm trung tâm của suy tư triết học.
            Khai mào cho bước chuyển hướng tư duy của lịch sử triết học nói riêng và của nhân loại nói chung, chúng ta phải nói tới các Nhà Ngụy Biện. Họ là những người đầu tiên đặt vấn đề đưa con người vào trong những suy tư triết học và lấy con người làm trung tâm những tư tưởng triết học của mình. Nếu các nhà Ngụy Biện là những người đặt móng trong việc chuyển hướng đối tượng của triết học, thì Socrates (470-399 tcn) là người thi công công trình này. Với tư tưởng trục là "con người hãy tự nhận thức lấy mình", Socrates được xem là hiện thân của bước rẽ trong hành trình của triết học, đã đưa triết học từ vũ trụ tự nhiên xa vời để trở về với tâm tư trăn trở của đời sống con người, nơi con người chân đạp đất, đầu đội trời để sống trong kiếp người của nó, tại đó có sự hiện hữu của ông. Đối với Socrates thì con người là trung tâm của tất cả những điều đáng suy nghĩ, đáng bận tâm và cân nhắc. Tiếp nối tư tưởng của thầy mình, Platon (427-347 tcn) kiên định lập trường: Con người là thước đo của vạn vật. Theo ông, con người là một sự sáng tạo của vũ trụ và con người được cấu tạo bởi hai phần riêng biệt: Thân xác và Linh hồn. Trong đó, thân xác là mồ chôn của linh hồn, thân xác và linh hồn tách biệt nhau, không liên quan nhau. Linh hồn có trước thân xác và khi xuống nhập thể với thân xác là nó chỉ sống tạm. Linh hồn con người bất tử, còn thân xác thì khả tử, khi thân xác chết đi thì linh hồn sẽ trở về nguồn của mình. Linh hồn thuộc về hồn vũ trụ, hạnh phúc thật của con người không ở đời này, mà là ở thế giới khả niệm, thế giới các ý tưởng và sẽ được tận hưởng khi linh hồn được trở về nguồn. Ông cũng cho rằng tất cả những gì con người nhận thức được ở đời này là do hồi tưởng những gì ở tiền kiếp mà thôi. Đến  Aristote (384-322 tcn), ông cũng nhấn mạnh đến vấn đề bản thể của con người. Ông cho rằng con người là một sự sáng tạo theo cách giống với những chủ thể khác trong vũ trụ. Tuy nhiên khác với Platon, Aristote cho rằng: Con người là một thể thống nhất giữa linh hồn và thân xác; giữa mô thể và chất thể, không thể tách rời nhau. Giữa linh hồn và thân xác có quan hệ mật thiết với nhau. Linh hồn con người chỉ có một kiếp sống cùng với thân xác, không có tiền kiếp nào cả. Nó gắn liền với sự tồn tại của thân xác. Linh hồn chết cùng với thân xác, và linh hồn không bất tử. Ông cũng cho rằng: con người là một sinh vật chứ không phải là thần thánh, nên ý nghĩa suộc sống và hạnh phúc là ngay ở trên đời này.
            Như vậy, dù ở những mức độ nhìn nhận và ở những môi trường khác nhau trong những quan niệm của các nhà triết học Hylạp Cổ đại, nhưng ta thấy con người được nhìn nhận như là một sự sáng tạo cao nhất, bằng cách nào đó con người đóng vai trò tuyệt diệu nhất trong vũ trụ. Qua đó ta có thể thấy: con người mặc dù thuộc về thế giới tự nhiên, là một sự sáng tạo có vật chất, nhưng lại có tính siêu phàm và có khả năng đạt tới siêu phàm bởi vì bản chất tự nhiên của con ngươi là siêu phàm. Trong con người ta cũng thấy có những cái vượt ra khỏi vật chất để tiếp cận với siêu phàm. Tuy vậy, cái "Siêu phàm" mà các nhà triết học Cổ đại đã đề cập vẫn còn rất mơ hồ đối với họ cũng như đối với các đọc giả. Họ chưa thống nhất được cũng như chưa nắm bắt được gì về cái mà họ cho rằng con người đang cố gắng vượt qua cái vật chất để hướng tới.
            Đến đây, con người và triết học đặt ra cho mình nhu cầu: là cần khai sáng về "vấn đề siêu phàm". Con người muốn biết về nó vì đó là đích sống của con người. Tuy nhiên trong nhu cầu này, con người cũng không muốn tách biệt và đi ra khỏi con người tự nhiên để hiểu biết về cái siêu nhiên. Đó là một thách đố đối với các nhà triết học, nhưng cũng là một lời mời gọi tìm kiếm sự khôn ngoan và các chân lý đối với những trí óc thông minh.
            Đến thời Trung cổ, vấn đề "tính siêu phàm" nơi hữu thể con người mới được khai sáng, nhân loại mới có thể tìm được câu trả lời hợp lý cho mình nơi tư tưởng và nhãn quan độc đáo, mới mẻ của thánh Augustinô và thánh Tôma Đacanh về con người vật chất tự nhiên cũng như về tính siêu việt hay "thần tính" của con người.
II.   CON NGƯỜI DƯỚI NHÃN QUAN CỦA THÁNH AUGUSTINÔ

            Tư tưởng triết học của thánh Augustinô chịu ảnh hưởng mạnh mẻ của triết học Platon và am hợp phần lớn với học thuyết Tân Platon. Tuy nhiên, nơi thánh Augustinô ta bắt gặp một sự thống nhất giữa cuộc đời và tư tưởng. Những tư tưởng của thánh nhân cũng chính là những trăn trở trên bước đường tìm kiếm chân lý cứu độ của ngài. Như thế, thánh Augustinô sử dụng triết học Platon không như là những bài học lý thuyết từ sách vở, nhưng là vì chúng am hợp với kinh nghiệm của ngài trên con đường tìm về với Thiên Chúa. Cũng vì thế  mà dưới nhãn quan của thánh Augustinô con người được nhìn trong sự đan xen hài hòa giữa tư tưởng Platon và sự "soi sáng" của ân sủng Thiên Chúa.
             
            1.  Trong việc nhìn nhận tổng thể con người, thánh Augustinô thống nhất với tư tưởng của Platon cho rằng: "Con người là sự kết hợp giữa thân xác và linh hồn"[4]. Trong đó, Linh hồn con người là thiêng liêng và có tính bất diệt, còn thân xác là vật chất và khả tử. Cũng vì thế mà theo thánh nhân, "con người có tính hai mặt vì con người thuộc về hai thế giới: thế giới tinh thần siêu việt và thế giới vật chất."[5] Do đó, trong con người luôn tồn tại trạng thái phân đôi, trong sự giằng co và đối lập của bất tử - khả tử, tốt - xấu, thiện - ác... Cũng theo thánh nhân, giữa linh hồn và thể xác con người có sự thống nhất. Tuy nhiên linh hồn đóng vai trò quyết định và điều khiển thân xác vì đó là sự sống và là lý trí của toàn thể con người. Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy được theo như quan niệm của thánh Augustinô thì giữa linh hồn và thân xác dường như có một dãi phân cách. Tuy nhiên đó là sự phân cách trong vai trò chi phối toàn thể con người.
            Trong khả năng hoạt động của linh hồn, thánh Augustinô cho rằng: linh hồn con người có một sinh hoạt đặc biệt với ba khả năng: trí nhớ, trí khôn và ý chí. Linh hồn là thực thể tinh thần kết hợp với lý tính và điều khiển lý tính. Vì thế mà những hoạt động của linh hồn không những có ảnh hưởng trong đời sống thực tại mà còn ảnh hưởng đến cả đời sống siêu nhiên của con người.
            2.  Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của học thuyết Platon, cho nên tư tưởng của thánh Augustinô có khuynh hướng phân đôi hai thế giới, thế giới khả niệm và thế giới khả giác. Chính ảnh hưởng đó đã khiến thánh nhân đã coi trọng những "sinh hoạt" của linh hồn hơn những hoạt động của thể xác. Tuy nhiên, trong tư tưởng ngài đã từng chống lại lập trường nhị nguyên của phái Mannicheisme. Điều đó cho ta thấy thánh nhân không bao giờ xem thân xác vật chất là xấu; ngài không cho rằng thân xác con người là tù ngục giam hãm linh hồn; và linh hồn nhập thể không phải là do tội lỗi của mình. Đây chính là điểm "bứt phá" ra khỏi sự chi phối hoàn toàn của tư tưởng Platon. Chính điều này đã giúp thánh Augustinô tránh được những ảo vọng của một khuynh hướng duy kinh nghiệm nguy hiểm mà nhiều học giả cùng thời và sau đó đã không tránh được . 
            Theo thánh Augustinô, sự liên kết giữa linh hồn và thể xác trong hiện tại của con người không phải là một sự liên kết lý tưởng. Đây chỉ là sự liên kết tạm thời và linh hồn sẽ lìa khỏi thân xác khi con người chấm dứt sự sống tạm ở đời này để bước vào một đời sống vĩnh cửu trong Thành Đô Thiên Chúa. Trong sự kết hợp này, thánh Augustinô đã đề cao vai trò của thân xác, xem thân xác là phương tiện của linh hồn. Tức là linh hồn sử dụng thân xác như một dụng cụ để mưu ích cho ơn cứu độ của linh hồn. Bởi linh hồn là thiêng liêng, nên sẽ dùng thân xác, kết hợp với thân xác để hành động nhằm mưu ích vĩnh cửu qua vật chất. Đó là "kiểu liên quan giữa một người thợ và công cụ của họ hay giữa một nghệ sĩ và nghệ khí của họ".[6] Như thế theo thánh nhân, linh hồn có khả năng chi phối được thể xác. Nhưng cảm giác xuất phát từ thân xác thì không thể tác động ngược lại lên linh hồn. Thánh nhân đã xem linh hồn như là một thực thể riêng biệt và độc lập. Giữa linh hồn và thân xác không có trách nhiệm và ảnh hưởng biện chứng, tương hổ lẫn nhau.
            3.   Trong nhãn quan của mình, thánh Augustinô khẳng định: "Thiên Chúa là sự thiện chính yếu của con người và chúng ta phải tìm kiếm Ngài bằng tình yêu cao nhất: không có sự thiện nào khác cho tạo vật có lý trí hay trí tuệ ngoài một mình Thiên Chúa... Ngài là sự thiện hoàn hảo cho họ, khiến không có Ngài thì họ chỉ có thể là bất hạnh"[7]. Đó là mục đích và khát vọng của con người hướng về Thiên Chúa. Khát vọng đó con người có thể cảm nghiệm được trong chính những hành vi của suy tư, trong ước muốn vì ngay chính trong con người bất toàn đã có tiềm ẩn một cái gì siêu việt và lòng khao khát tuyệt đối.
            Thánh nhân cho rằng: "Cuộc sống trần gian là nhà tập của cuộc sống đời đời"[8]. Cuộc sống đời đời chỉ ở trong Thành Đô Thiên Chúa, ở đó mọi cái đều được xây dựng bởi tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa. Cũng chính vì thế mà trên hành trình trở về, thánh Augustinô đã bộc lộ khao khát của mình khi nhận ra rằng: "Lạy Chúa, Ngài tạo dựng chúng con cho Ngài và trái tim chúng con không tìm được sự nghỉ ngơi chừng nào nó chưa được nghỉ ngơi trong Ngài".[9] Đó là khao khát mà con người luôn được mời gọi và hướng tới. Ước muốn hướng tới cùng đích đó, theo thánh Augustinô là nó đã được cài sẵn trong tâm khảm của mọi người, là một khao khát mãnh liệt và nó có thể chiến thắng được những níu kéo của xác thịt. Cũng theo thánh nhân: khi tràn đầy ân sủng của Chúa, thân xác bây giờ là thân xác tinh thần: vì lúc đó, nó vâng theo ý của tinh thần, không còn có những chống đối xuất phát từ nơi chúng ta. Linh hồn được tôn vinh sẽ mạnh mẽ thấm nhuần thân xác của mình đến nỗi sẽ kéo thân xác ra khỏi những điều kiện của xác thịt và cho tham dự vào những điều kiện của mình. "Chính linh hồn chúng ta sẽ hiện hữu cho thân xác; và nó thực hiện điều này cách trọn vẹn đến nỗi ngay bản chất của thân xác cũng có tinh thần."[10] Đó là sự chiến thắng của tinh thần hướng về Thành Đô Thiên Quốc vĩnh cửu.
            4.    Trong vấn đề nhận thức của con người, thánh Augustinô cho rằng: có một thế giới khả niệm mà ta có thể trực giác được nhờ tri thức. Cũng theo thánh nhân: trong việc nhận thức khả giác, sự vật khả giác không thể tạo ấn tượng trực tiếp trên trí khôn, nghĩa là sự vật không thể tác dụng trực tiếp lên tinh thần, mà phải thông qua trung gian, đó là những hình ảnh hay các ý niệm. Mặt khác thánh Augustinô cho rằng: trong con người đã có sẵn những nguyên lý của lý trí và nguyên tắc của luân lý, cũng như đã có sẵn quy luật cho mọi tư tưởng và hành động. Nó có trước và tự lập đối với những hoạt động của các giác quan nơi con người. Vì thế mà thánh nhân đã kêu gọi con người: "Hãy trở về trong ngươi vì chỉ trong con người nội tâm mới có chân lý cư ngụ"[11]; và "trong chúng ta có ánh sáng của lý trí vĩnh cửu, trong ánh sáng này chúng ta thấy được các chân lý bất di bất dịch".[12] Những chân lý có sẵn trong con người đều xuất phát từ Thiên Chúa và thông qua ánh sáng của Thiên Chúa con người có khả năng nhận biết được chân lý. Thánh Augustinô khẳng định: trước khi sinh ra, chúng ta không sống ở một thế giới nào cả ở tiền kiếp. Do đó chúng ta cũng không sống với những kỷ niệm của một cuộc sống chiêm ngưỡng những lý tưởng hằng ngày, ngược lại "chính Thiên Chúa là ánh sáng nội tâm soi sáng ta tham dự vào những chân lý thường hằng của Ngài và chiêm ngưỡng những chân lý ấy".[13] Như vây, con người có thể đạt được chân lý trường cửu chính là nhờ sự tham dự vào ý tưởng của Thiên Chúa. Điều đó cho ta một nhận định rằng: Thánh Augustinô đã không đề cao vai trò của cảm giác và giác quan trong việc nhận thức. Theo ngài, việc nhận thức bằng giác quan chưa phải là một nhận thức đích thực và những tri thức do các giác quan đưa đến là bậc nhận thức thấp nhất. Lý do thánh nhân quan niệm như vậy là vì theo thánh nhân: "Có hai điều làm giảm thiểu sự chắc chắn của tri thức bằng giác quan: một là các đối tượng của các giác quan luôn luôn thay đổi, và hai là chính các giác quan của chúng ta cũng thay đổi"[14]; hơn nữa loài vật cũng có được loại nhận thức này.
            5.  Về vấn đề tương quan giữa đức tin và lý trí của con người, thánh Augustinô khẳng định sự liên kết chặt chẽ và bổ túc cho nhau giữa đức tin và lý trí của con người. Thánh Augusitô cho rằng: Tin cũng là một cấp độ hiểu biết, đó là một hoạt động của lý trí con người, nó đưa tới một sự hiểu biết trí tuệ. Do đó, niềm tin không phải là điều trái ngược với lý trí. Với quan niệm đó, thánh nhân đã để lại cho chúng ta một lập trường vững chắc: "Hãy tin để hiểu và hãy hiểu để tin".[15] Ta thấy rằng lập trường này không phải là một khuôn khổ cứng nhắc của thái độ duy tín hay duy lý, mà là một sự tương hợp, gắn bó, bổ túc cho nhau giữa hai lãnh vực: Đức tin và Lý trí. Một mặt cho ta thấy con người có thể tìm đến đức tin qua nẻo đường của suy tư, của triết học, của kiến thức... Như thế không có nghĩa là đức tin xuất phát từ lý trí, mà phải hiểu là lý trí trong nổ lực chuẩn bị, khao khát tìm kiếm của nó, sẽ dọn chổ cho đức tin cư ngụ. Mặt khác ta thấy tin không phải là chấp nhận một cách mù quáng hay là một thứ duy tín. Nhưng trên con đường tìm kiếm của lý trí, nhờ ánh sáng đức tin, lý trí sẽ có được những cột mốc chỉ đường vững chắc trên hành trình đi tìm chân lý. Như vậy, đức tin và lý trí tương hỗ, củng cố và kiện toàn cho nhau. Tuy nhiên, đứng ở phương diện khách quan ta thấy thánh nhân đã đề cao vai trò của đức tin hơn là lý trí. Theo thánh nhân: "trước hết hãy chấp nhận những lý thuyết do đức tin đề ra, sau đó mới tìm hiểu để đào sâu".[16] Điều này cũng có nghĩa là thánh Augustinô đã đặt Đức tin làm nền tảng cho lý trí trong việc nhận thức của con người. Thánh nhân đã lấy Đức tin làm định hướng cho con người trong quá trình vươn lên và tiếp cận với chân lý.
            6.  Trong vấn đề tự do của con người, theo thánh Augustinô: tự do là quyền quyết định như một trọng tài trước những chọn lựa. Đến đây thánh Augustinô còn đi xa hơn khi cho rằng: sự tự do đích thực không cốt ở sự chọn lựa điều thiện hay điều ác, song là khả năng vươn lên tới sự Thiện là chính Thiên Chúa và là mục đích cuối cùng của con người mà không hệ lụy ở một ràng buộc nào. Con người được ban cho khả năng chọn lựa để tìm đường trở về với Ngài. Khi người ta chọn lựa điều xấu, là người ta đã lạm dụng khả năng này để xa rời mục đích tối hậu của mình là Thiên Chúa. Ngược lại, khi con người sống với sự tự do đích thực là họ sống với khả năng đón nhận ân sủng và biết xử dụng sự tự do chọn lựa để phụng sự và chiêm ngưỡng Đấng Tối Cao. Con người được sáng tạo tự do và trong tự do con người phải quy hướng về Thiên Chúa. Quy hướng và lệ thuộc vào Thiên Chúa, con người không mất tự do, trái lại vì Ngài chính là Chân, Thiện, Mỹ, là cứu cánh nên lệ thuộc và quy hướng vào Ngài con người được tự do hơn.
            7.   Thánh Augustinô cũng khẳng định rằng: Con người có tự do thì có sự ác. Như vậy sự ác luôn đi đôi với sự tự do của con người và cái ác là sản phẩm của ý chí, nó không phải là sản phẩm của ngu dốt. Con người có khả năng hướng tình cảm của mình về các thụ tạo và cho đó là mục đích cứu cánh của đời mình để rồi quay lưng lại với Thiên Chúa là sự Thiện tuyệt đối. Sự hướng về hay quay lưng lại của con người với Thiên Chúa là hành vi tự do và hoàn toàn tự ý của chủ thể. Sau khi có tội Nguyên Tổ, con người không còn có sự tự do tinh thần đích thực và trọn vẹn ở đời này nữa. Con người bị tội lỗi, sự dữ chi phối và đã sử dụng tự do ý chí để chọn những điều sai trái.
            Thánh nhân cũng khẳng định rằng: Sự ác không phải là điều tất yếu của công trình tạo dựng Thiên Chúa thực hiện. Thiên Chúa không phải là nguyên nhân của cái ác hay điều xấu, vì "bản thân cái ác, cái xấu hay bất công không phải là một thực thể mà là sự đồi bại của ý chí, đã đi xa chệch Chúa, là thực thể cao nhất để đi xuống với những sự vật thấp nhất"[17]. Con người được Thiên Chúa sáng tạo, cho nên trong tự bản chất con người là thiện. Thánh nhân cho rằng: sự ác không hiện hữu, đó là "sự vắng mặt của một sự thiện phải có"[18]. Tóm lại, đó là kết quả của những tạo vật đã lạm dụng tự do, để tự chuốc lấy cho mình bất hạnh.  
            Như vậy, ta thấy thánh Augustinô trong nhãn quan về con người của mình, ngài đã đề cao và nhấn mạnh đến lãnh vực siêu nhiên hơn tự nhiên. Ngài đã dung hợp nhãn quan đó với những kinh nghiệm của ngài trên con đường trở về với Thiên Chúa, thể hiện rõ những suy nghĩ  nội tâm. Thánh nhân đã khám phá ra những điều kỳ diệu của con người theo hướng từ trên xuống, nghĩa là ngài xuất phát từ những ân sủng của Chúa ban cho con người. Bên cạnh đó ta cũng thấy thánh Augustinô đã trình bày tư tưởng của mình không phải ở thế giá của một triết học gia. Thánh nhân chỉ trình bày nhãn quan của mình về con người nhằm mục đích là biện minh cho niềm tin Kitô hữu trước sự xâm nhập và bành trướng tư tưởng của phái Hoài Nghi và phái Manicheime trong nhân loại cũng như trong đời sống của Giáo Hội.

II.     CON NGƯỜI DƯỚI NHÃN QUAN CỦA THÁNH TÔMA ĐACANH

            Với nhãn quan độc đáo của mình về con người, thánh Tôma Đacanh đã làm "phục sinh" tâm thức, tư tưởng của nhân loại, hay ít nhất là của các Kitô hữu. Bởi lẽ, tuy rằng thánh Augustinô là người đi trước và đã nhìn con người trong sự đan xen hài hòa giữa tư tưởng Platon và sự "soi sáng" của ân sủng Thiên Chúa. Nhưng bầu không khí triết học theo khuynh hướng Platon vẫn ảnh hưởng cách mạnh mẽ theo hướng tiêu cực, ít nhất là trong Giáo Hội. Đặc biệt là đã gieo rắc sự miệt thị đối với thân xác con người cũng như cuộc sống của họ. Trong tâm cảnh đó, thánh Tôma Đacanh, dựa theo một số nền tảng triết lý của Aristote và đã tìm thấy một ánh sáng mới khi tiếp cận với con người thực tại. Thánh nhân đã nhìn ngắm con người trong tất cả những gì hiện hữu vốn có của nó. Để trong nhãn quan đó, cùng với linh hồn, thánh Tôma muốn trân trọng thân xác cũng như những cấu tố của nó. Ở đó, ngài khám phá ra những giá trị của thân xác cũng như những hoạt động của thân xác ở đời này. Nơi nhãn quan của thánh Tôma, con người có sự đồng nhất giữa siêu nhiên và tự nhiên theo nguyên lý: "Siêu nhiên không phá đổ nhưng kiện toàn tự nhiên".[19]

            1.   Con người trong nhãn quan của Thánh Tôma là một hữu thể duy nhất, được cấu tạo bởi sự kết hợp chặt chẽ, không thể tách rời của linh hồn và thân xác.Thánh nhân đặc biệt nhấn mạnh đến sự thống nhất nơi bản chất con người: Hồn-Xác, không phải hai mà là một. Linh hồn và thân xác của con người là duy nhất và đồng nhất. Linh hồn chính là phần tinh thần và thân xác là phần vật chất. Đó là hai nguyên lý đồng cấu tạo nên hữu thể con người trọn vẹn. Thánh Tôma khẳng định: Giữa linh hồn và thân xác con người có mối tương hỗ biện chứng với nhau. Không có hồn, thân xác sẽ không có hình thức, sẽ không thể trở thành "là" nó. Còn không có thân xác, linh hồn sẽ không có các cơ quan cảm giác cần thiết để đạt được tri thức, sẽ không có phương tiện hữu hình để hoạt động trong thực tại.[20] Nói cách khác, tinh thần hay là hồn của con người sẽ không thể hình thành hay hoạt động, dù là những hoạt động thông thường cho tới việc chiêm ngưỡng cao siêu mà không cần đến thân xác làm phương tiện thực hiện. Ở đây ta thấy thánh Tôma đã thoát ra khỏi ảnh hưởng của Platon. Theo thánh Tôma và cũng tương đồng với thánh Augustinô thì linh hồn không bao giờ được xem là bị tù giam thân xác. Thánh nhân cũng đồng ý rằng: thân xác vì là vật chất nên khả tử. Nhưng ngài cũng cho rằng, nơi thân xác linh hồn con người mới biểu hiện được hết tất cả những gì vốn có của nó. Chính nơi yếu tố vật chất con người bộc lộ được yếu tố siêu nhiên của mình: "thân xác giúp cho linh hồn ta triển nở và bày tỏ các năng lực của mình, để có thể gọi thân xác là sự tròn đầy của linh hồn"[21]. Đó chính là giá trị của thân xác.
            2.  Thánh Tôma trong nhãn quan của mình, ngài đã đề cập nhiều đến giá trị siêu nhiên cao quý của linh hồn con người. Ngài xem linh hồn chính là hình thức của thân xác và hoạt động của linh hồn được thông qua các quan năng của thân xác, đặc biệt là lý trí và ý chí. Linh hồn con người là vô hình, là lý trí, là nguyên nhân đem đến nguồn sống cho con người và vượt trên cả bất tử, linh hồn con người có tính bất diệt. Đó là đặc ân mà Thiên Chúa đã ban cho con người, vì thế mà linh hồn con người có khả năng đạt tới cứu cánh tối hậu của mình là sự hiệp thông với Thiên Chúa và được yêu mến Người. Nhờ được sự hiệp thông đó, mà "con người duy trì được các mối liên hệ theo trật tự: các cơ quan cảm năng phục tùng ý chí, ý chí phục tùng lý trí và lý trí phục tùng Thiên Chúa."[22]
            Trong sự kết hợp mật thiết giữa linh hồn và thân xác, thánh Tôma cho rằng: việc đó không gây trở ngại nào cho phẩm giá cao quý của con người, cũng như đối với vận mệnh bất diệt của linh hồn. Con người là "một thực tại với bản chất vừa vật chất vừa tinh thần."[23] Điều này có nghĩa, những hoạt động của linh hồn có ảnh hưởng trong đời sống thực tại và trong đời sống siêu nhiên. Cũng một tinh thần ấy, linh hồn ấy điều khiển ước vọng đam mê xác thịt và cả trong việc đón nhận và sử dụng ân sủng để dẫn con người đến hạnh phúc. Với thánh Tôma, linh hồn con người là mô thể của thân xác, "có những sức của thân thể: những sức này sử dụng các cơ quan mà công việc là cung cấp một cái gì đó cho các hành động của linh hồn".[24] Như vậy, linh hồn là tinh thần đã ý thức về mình bằng cách xây dựng thân xác mình trong tương quan với thế giới và qua thân xác linh hồn biểu hiện mình cách trọn vẹn.
            3.   Bàn về vấn đề mục đích cứu cánh của đời sống con người, thánh Tôma đã cố gắng đi vào trong chính bản chất của con người để cho thấy rằng cơ cấu của con người tự nó luôn có mục đích và khát vọng hướng về Thiên Chúa là Chân-Thiện-Mỹ, là hạnh phúc vĩnh cửu. Thánh nhân cũng khẳng định: con người tìm về Thiên Chúa không nhằm thỏa mãn óc lý luận muốn biết về mình cũng như về vũ trụ, nhưng còn là vì trong cơ cấu của con người đã luôn có ước muốn được hạnh phúc, được sự thiện tuyệt đối. Theo thánh nhân, dù linh hồn con người kết hợp với thân xác là yêu tố vật chất, nhưng vẫn không ảnh hưởng đến tính bất diệt của nó trong việc hướng về Vĩnh Cửu. Vì thánh nhân cho rằng: chỉ có một "mô thể" điều khiển và chịu trách nhiệm về mọi sinh hoạt của tinh thần lẫn vật chất. Nó điều khiển mọi hoạt động của thân xác và cả việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa cũng như việc quy hướng về Ngài. Như vậy, đối với ước muốn  quy hướng về Thiên Chúa nơi con người, thì thánh Tôma đã xem như là một căn tính tất định sẵn có trong bản thể của mỗi người chúng ta.
            4.   Quan điểm của thánh Tôma trong việc nhận thức của con người: Ngài đặc biệt đề cao vai trò của thân xác, nhấn mạnh đến khả năng của các cảm giác, giác quan và nhất là vai trò của lý trí. Ngài cho rằng: con người có thể hiểu biết những chân lý căn bản mà không cần đến ơn phù trợ trực tiếp của Thiên Chúa. Hơn nữa, từ vật chất con người cũng có thể khám phá được Thiên Chúa. Trong quá trình con người tiếp cận với các chân lý, theo thánh Tôma: Trừ những thực tại tinh thần thuần túy ra thì không có gì có trong trí khôn mà không thông qua giác quan. Theo nguyên tắc: đối tượng được nhận thức nằm ở trong chính chủ thể nhận thức và việc nhận thức các đối tượng đều theo hình thái của chủ thể nhận thức. Hơn nữa, theo thánh nhận thì dù con người có những nguyên lý căn bản của lý trí, những cũng phải nhờ đến kinh nghiệm để xuất hiện và phát triển.[25] Cũng theo thánh Tôma, những ý tưởng của lý trí không phải do bẩm sinh mà là do sự trừu xuất từ những hình tượng trung gian mà giác quan cung cấp. Dù rằng, khả giác và các sự vật khả giác không thể tác dụng trực tiếp lên tinh thần, mà phải thông qua trung gian, là những hình ảnh hay các ý niệm. Nhưng "không thể có nhận thức nếu không có kinh nghiệm giác quan, vì không thể có gì trong trí tuệ nếu nó không có trong giác quan trước đã".[26] Cũng theo thánh nhân, không phải chỉ riêng trí tuệ suy tưởng và tiếp cận chân lý nhưng là cả con người. Như vậy, thánh Tôma đã phủ nhận tư tưởng của Platon. Đó cũng là điểm độc đáo và mới mẽ của thánh Tôma so với truyền thống.
            5.    Đề cập đến vấn đề mối liên quan giữa Đức tin và Lý trí, thánh Tôma đã có sự đồng tình với thánh Augustinô. Thánh nhân đã khẳng định sự liên kết chặt chẽ và bổ túc cho nhau của hai lãnh vực khác nhau này. Theo thánh Tôma, Đức tin là phạm vi của huyền nhiệm siêu nhiên còn Lý trí là phạm vi của khoa học. Đó hoàn toàn là hai lãnh vực khác nhau và chúng có những điểm khác biệt nhau, nhưng lại không đối nghịch nhau. Thánh nhân cho rằng cả hai lãnh vực này cùng lớn lên và cùng tồn tại trong nhau nơi đời sống của con người. Nó bổ túc và hỗ trợ nhau để nên trọn vẹn, đồng thời phong phú hóa cho nhau, cùng làm nên giá trị đích thực cho con người. Thánh Tôma cho rằng: chân lý phát xuất từ Thiên Chúa là chuẩn mực của mọi chân lý, là thước đo của mọi chân lý siêu nhiên và tự nhiên. Vì vậy, về nguyên tắc không thể có sự mâu thuẫn giữa thần học và triết học, giữa đức tin và lý trí. Ngược lại, "Đức tin và Lý trí được ví như đôi cánh giúp con người vươn cao lên trong sự chiêm niệm chân lý".[27] Giữa chúng có liên hệ tương hỗ nhau: "khi lý trí kết hợp với đức tin sẽ làm cho việc nắm bắt những chân lý trở nên vững chắc và khả hữu hơn."[28] Mặt khác, Tin là hành vi không hoàn toàn thuộc về phạm vi siêu nhiên, mà tin còn là hành vi của trí tuệ gắn bó với chân lý của Thiên Chúa. Tuy nhiên trong hành vi đặc biệt này, con người thực hiện dưới sự điều động của ý chí được ân sủng của Chúa lay động. Đây là một cảm nhận sâu xa của thánh Tôma, nó thể hiện được sự kết hợp giữa ân sủng và ý chí trong con người.
            6.    Trong vấn đề tự do của con người, thánh Tôma cho rằng: đó là quà tặng của Thiên Chúa ban cho con người. Là khả năng chọn lựa yêu mến, quy hướng phục tùng và vươn lên tới Thiên Chúa hoặc là con người chống lại Thiên Chúa, chống lại công bằng, sự thiện hay sự tốt lành. Con người là một chủ thể luân lý, nên con người luôn có ý thức trước những hành động của bản thân. Nghĩa là con người tự do hoạt động có trách nhiệm, biết dùng suy luận để cân nhắc các lý lẽ trước khi hành động và có ý chí để điều khiển các hành vi. Con người có tự do hướng về hạnh phúc và tìm cách đạt đến sự thiện tuyệt đối.[29]
            7.   Bàn về vấn đề sự ác và điều xấu, thánh Tôma cũng tương đồng với quan điểm đi trước của thánh Augustinô, ngài cho rằng: đó không phải là điều tất yếu của công trình tạo dựng Thiên Chúa thực hiện. Thiên Chúa không phải là nguyên nhân của cái ác hay điều xấu. Theo thánh nhân cái ác hay điều xấu không phải là một hữu thể được tác thành. Nó xuất hiện cùng với con người và trong đời sống của con người nhưng nó không phải là cái khẳng định, mà nó chỉ là cái phát sinh kèm theo của các hành vi của con người. Nguyên nhân của nó là sự thiếu vắng điều thiện đáng lý phải có nơi những sự vật, sự kiện hay hành vi. Bên cạnh đó còn là do việc con người đã chọn lựa điều sai trái đi kèm với sự tự do của mình.
            Đối với vấn đề bất hảo của vũ trụ thánh Tôma cho rằng: sự hoàn hảo của vũ trụ đòi hỏi phải có sự bất hoàn hảo của các hữu thể. Đó là khả năng tạo ra hư hoại của các hữu thể chứ không phải là tất yếu có hữu thể hư hoại. Đối với thánh Tôma, các tạo vật Thiên Chúa dựng nên, được phân cấp theo sự hoàn hảo của nó. Tuy nhiên, sự bất hảo nơi các tạo vật trong bản chất vốn là những tiềm thể và các tạo vật luôn có khả năng biến đổi các tiềm thể sang hiện thể.[30] Như thế cho ta thấy: nhìn nhận giá trị của tạo vật là tôn vinh Đấng tạo Hóa.
           
            Nhìn chung lại ta có thể nói: Thánh Tôma Đacanh đã nhìn con người bằng cách nhìn từ dưới lên. Nghĩa là thánh Tôma xuất phát từ những gì đã có và đang có của con người thực tại để khám phá ra những huyền nhiệm siêu nhiên nơi con người. Chính vì thế mà ta thấy được tư tưởng của thánh Tôma gần gũi với thực tế hơn, giúp chúng ta dễ nắm bắt hơn. Ta cũng có thể nói: Thánh Tôma như đang kéo thế giới huyền nhiệm, siêu nhiên gần lại với những thực tại sống động và cụ thể nơi con người. Mối bận tâm của ngài là tìm kiếm những nền tảng triết lý để có thể làm sáng những chân lý về con người nhằm biện hộ cho của niềm tin Kitô giáo. Do đó ta cũng dễ nhận thấy trong triết học của thánh nhân có sự tổng hợp giữa các học thuyết đi trước của Aristote và của thánh Augustinô.
           
III. NHẬN ĐỊNH CHUNG

            Nghiên cứu nhãn quan của thánh Augustinô và thánh Tôma Đacanh về con người được trình bày trong tư tưởng triết học của các ngài ta thấy: khi trình bày nhãn quan của mình về con người, các ngài đã không chủ trương xây dựng thành một hệ thống triết lý hay tìm một lập trường triết lý về con người vì triết học. Nhưng điều quan trọng mà cả hai thánh đều muốn nhắm đến là biện hộ cho niềm tin của Giáo Hội. Các ngài muốn khẳng định: con người là một công trình kỳ diệu của Thiên Chúa, là cầu nối giữa thế giới huyền nhiệm siêu nhiên của Thiên Chúa với thực tại tự nhiên của vũ trụ. Qua đó các ngài cũng muốn bộc lộ tư tưởng rằng: khi nhìn nhận giá trị của con người, tức là đồng nghĩa với việc suy tôn vinh quang của Thiên Chúa.
            Hai thánh Augustinô và thánh Tôma đã có công lớn đối với Giáo Hội trong việc đã Kitô hóa được hai tư tưởng triết học lớn của nhân loại và đã tạo nên được hai truyền thống đứng song song nhau trong lòng Giáo Hội là truyền thống Platon-Kitô giáo và truyền thống Aristote-Kitô giáo. Hai truyền thống này như đôi cánh tăng thêm sức mạnh cho Giáo Hội trong cuộc chiến đấu và bảo vệ đức tin của mình trước sóng gió thời đại.
            Thánh Augustinô và Thánh Tôma Đacanh là hai con người thuộc hai thời đại khác nhau, tuy nhiên hai thánh co điểm chung là cùng nhìn con người trong một đức tin. Vì vậy, trong hai nhãn quan ta thấy được những điểm tương đồng và những điểm khác nhau. Điều đó nó bổ túc cho nhau để cả hai cùng đưa đến cho Giáo Hội và cho nhân loại một nhãn quan đầy đủ, chính xác và khách quan về con người như tất cả những gì con người đã có, đang có và sẽ có.
             


Jos. Magnificat LX. K12




[1] HĐGMVN, Tóm lược học thuyết xã hội của GHCG, số 114 (nxb: Tôn Giáo, 2007), 103.
[2] Nguyễn Trọng Viễn O.P, Lịch sử triết học Tây phương, Tập II (Học viện ĐaMinh, 1998), 66.
[3] Nguyễn Trọng Viễn O.P, Lịch sử triết học Tây phương, 194.
[4] Samuel Enoch Stumpf, Lịch sử triết học và các luận đề, n.d. Đỗ Văn Thuấn-Lưu Văn Hy, Hà Nội: nxb Lao Động, 2007, 116.
[5] Nguyễn Tiến Dũng, Lịch sử triết học tây phương (nxb: TP HCM, 2006), 186.
[6] Lê Tôn Nghiêm, Lịch sử triết học phương tây, tập III, triết học thời trung cổ, (nxb TP HCM, 2000), 40-41.
[7] Samuel Enoch Sfumpf & Donald C.Abel, Nhập môn Triết học, n.d. Lưu Hữu Bằng, nxb: Tổng Hợp TP HCM, 2004, 295.
[8] Nguyễn Trọng Viễn O.P, Lịch sử triết học Tây phương, 41.
[9] Tự thuật của thánh Augustinô, n.d Vân Thúy, 32.
[10] St. Augustinô. Sermo 242, II, trích từ: Jean Mouroux, Quan niệm Kitô giáo về con người, n.d.Trần Thái Đỉnh-Nguyễn Bình Tĩnh, ĐCV Huế, 1997, 160.
[11] Lê Tôn Nghiêm, Lịch sử triết học phương tây, triết học thời trung cổ, 47.
[12] Samuel Enoch Stumpf, Lịch sử triết học và các luận đề, 118.
[13] Lê Tôn Nghiêm, Lịch sử triết học phương tây, triết học thời trung cổ, 48.
[14] Samuel Enoch Stumpf, Lịch sử triết học và các luận đề, 116.
[15] Nguyễn Trọng Viễn O.P, Lịch sử triết học Tây phương, 48.
[16] Lm. Ga Nguyễn Hồng Pháp, Đại cương Triết học Tây Phương, ĐCV Vinh Thanh, 2012, 40.
[17] Tự thuật của thánh Augustinô, n.d Vân Thúy, 226.
[18] Lm. Ga Nguyễn Hồng Pháp, Đại cương Triết học Tây Phương, 2012, 42.
[19] Nguyễn Trọng Viễn O.P, Lịch sử triết học Tây phương, 195.
[20] Samuel Enoch Stumpf, Lịch sử triết học và các luận đề, 160.
[21] Quan niệm Kitô giáo về con người, n.d. Trần Thái Đỉnh-Nguyễn Bình Tĩnh, ĐCV Huế, 1997, 116.
[22] Học thuyết Thánh Thomas Aquinas,  "Thần Học Về Con Người Theo Các Giáo Phụ Và Thánh Tôma", 2010, http://www.daminhvn.net. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2012.
[23] Samuel Enoch Stumpf, Lịch sử triết học và các luận đề, 156.
[24] Quan niệm Kitô giáo về con người, n.d. Trần Thái Đỉnh-Nguyễn Bình Tĩnh, ĐCV Huế, 1997, 69.
[25] Lm. Ga Nguyễn Hồng Pháp, Đại cương Triết học Tây Phương, 2012, 73.
[26] Samuel Enoch Stumpf, Lịch sử triết học và các luận đề, 161.
[27] ĐTC Gioan Phaolô II, 14/9/1998, Thông điệp "Fides et Ratio" (Đức tin và Lý trí), n.d. Lm Nguyễn Hồng Giáo, 2006.
[28] Lm. Ga Nguyễn Hồng Pháp, Đại cương Triết học Tây Phương, 2012, 80.
[29] http://www.daminhvn.net.
[30] Samuel Enoch Stumpf, Lịch sử triết học và các luận đề, 155.